Dưới đây là bốn bài viết, hai bài đầu do bên phía Cộng Sản Việt Nam và và hai bài sau, một do một chiến sĩ thuộc Lực Lượng Người Nhái Việt Nam Cộng Hòa và bài kế tiếp tổng hợp nhiều nguồn thuật lại vụ Vũng Rô, cùng một sự kiện, cùng một trận đánh.
Trận Vũng Rô qua cái nhìn cả hai bên
Vũng Rô là địa danh một vịnh nằm tại xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên, ngay sát ranh với tỉnh Khánh Hòa . Trước 1975, Vũng Rô được biết đến qua sự kiện quân đội Việt Nam Cộng Hòa khám phá và đánh chìm một tàu chở vũ khí từ miền Bắc vào tiếp tế cho quân đội Cộng Sản tại miền Nam. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã họp báo trưng ra hình ảnh chiếc tàu do Trung Quốc đóng với hàng chữ Trung Quốc, cùng với vũ khí do Trung Quốc chế tạo để công bố với thế giới là quân đội Cộng Sản tại miền Nam được miền Bắc tiếp tế vũ khí và vũ khí là do Trung Quốc cung cấp .
Dưới đây là ba bài viết, bài đầu tiên do bên phía Cộng Sản Việt Nam và và hai bài sau, một do một chiến sĩ thuộc Lực Lượng Người Nhái Việt Nam Cộng Hòa và bài kế tiếp tổng hợp nhiều nguồn thuật lại vụ Vũng Rô, cùng một sự kiện, cùng một trận đánh.
Bài viết bên phía Cộng Sản Việt Nam, đăng trên vietbao.vn
Bùng nổ sự kiện Vũng Rô
Thứ tư, 22 Tháng mười hai 2004
Chúng tôi dỡ hết hàng thì trời đã sáng bạch. Nhanh chóng chuyển hàng vào các hang đá. Và giấu tàu.
Mỏm đá lạ trên vách núi
Vũng Rô ba bề vách đá dựng đứng. Trên những vách sừng sững ấy, thỉnh thoảng có những chòm cây mọc bám vào đá, lơ lửng giữa không trung hay sát mặt nước.
Chúng tôi cho tàu áp sát vào một vách đá đen gồ ghề và chặt những cành cây lớn phủ kín. Từ trên nhìn xuống chẳng khác gì một mỏm đá hơi nhô ra, có một chòm cây lá mọc từ vách đá che phủ.
6g sáng…
Trên đỉnh đèo Cả, ngay từ mũi tàu ta nhìn lên, cách vài trăm mét là một đồn địch lù lù. Nhìn ra phía biển, cách 500m là một đồn địch khác: đồn Mũi Điệng.
Thật tình lúc này rất lo nhưng lại tự an ủi: càng ở ngay trước mũi chúng càng bất ngờ. Chúng không thể nghĩ ta dám vào tận đây đâu.
7g sáng, có ba chiếc trực thăng từ phía nam bay ra…
Trong chiến tranh, những sự kiện vang dội nhất lắm khi lại bắt đầu từ một ngẫu nhiên không đâu. Ngày hôm ấy một ngẫu nhiên như vậy đã xảy đến, mãi về sau này, sau năm 1975 giải phóng miền Nam rồi, qua tài liệu của địch chúng tôi mới biết.
Ngày 15-2-1965, tức là đúng cái ngày chúng tôi đến điểm chuyển hàng trên vùng biển quốc tế ngang Phú Yên, Khánh Hòa, trên chiến trường Khu 5 đã diễn ra một trận đánh lớn đặc sắc: trung đoàn 2, sư đoàn 3 quân giải phóng Khu 5 chặn đánh tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn địch tại đèo Nhông thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
Gần chục xe tăng của địch bị bắn cháy tan tành. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Khu 5 quân ta sử dụng súng chống tăng B41. Số súng này do chính các tàu ta đưa vào Khu 5 trong những chuyến trước.
Thương binh địch ngổn ngang trên trận địa đèo Nhông. Chúng phải dùng trực thăng chở về các bệnh viện ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Bệnh viện Quy Nhơn cũng chật cứng rồi, chúng lại phải chuyển về Nha Trang.
Chính trên một chiếc trực thăng UH1B tải thương đó, bay dọc đường số 1 ven biển từ Quy Nhơn về Nha Trang, lúc qua đèo Cả khoảng 12g trưa, viên phi công đã tình cờ nhận thấy “một mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây Vũng Rô” mà những ngày trước chưa hề thấy. Hắn liền báo về bộ chỉ huy quân đoàn 2 ngụy ở Nha Trang.
Phải nói công tác tham mưu của bọn này rất chặt chẽ, tỉ mỉ. Ngày nào cũng có hai lượt máy bay trinh sát bay chụp ảnh suốt dọc vùng ven biển. Đối chiếu các không ảnh chụp những ngày trước, chúng thấy quả là “mỏm đá lạ trên vách núi phía tây Vũng Rô” mới xuất hiện từ sáng nay.
Máy bay trinh sát O-1
Bấy giờ là khoảng 1g chiều. Một máy bay trinh sát từ phía Nha Trang ra, quần mấy vòng trên Vũng Rô rồi bắn một quả mù đúng vào chỗ ta giấu tàu. Lập tức hai chiếc khu trục AD6 lao tới, bổ nhào, ném một loạt bom xăng trúng tàu. Tất cả lớp lá ngụy trang của ta bốc cháy rừng rực. Tan khói, toàn bộ hình tàu lộ ra rõ mồn một.
Từ đó đến sẩm tối, hàng chục tốp khu trục liên tiếp đến ném bom. Tới 5g chiều thì tàu chìm hoàn toàn.
Xác chiếc tàu chìm dưới nước
Cuộc đụng độ không cân sức
Trước đó, khoảng 4g chiều, tôi được lệnh cùng đồng chí máy trưởng tìm mọi cách xuống tàu để đánh bộc phá. Trong tàu đã đặt sẵn một khối bộc phá 500kg, đảm bảo giật nổ tung tàu, phi tang. Khối bộc phá này bố trí ở khoang máy.
Chúng tôi vượt qua bom đạn mù mịt, tiếp cận được tàu nhưng không vào được khoang máy. Tàu bị trúng bom nghiêng hẳn về một bên, cửa khoang máy chúi xuống phía đáy vịnh, bị sức ép mạnh của nước, chúng tôi lặn xuống nhiều lần không cách nào mở ra được.
Tối, máy bay địch lại đến thả pháo sáng. Mặc pháo sáng, chúng tôi trở lại tàu, lặn xuống, cố lấy hết số súng đạn còn lại trong tàu.
Mờ sáng hôm sau địch lại đến ném bom.
Tối 17-2, quân khu phái xuống một tiểu đội công binh, dùng 1 tấn bộc phá quyết phá tan tàu, thủ tiêu tung tích. Nhưng giật nổ bộc phá xong, chúng tôi trở lại xem thấy tàu chỉ vỡ đôi.
Chiều 17-2 có hiện tượng mới: một chiếc tàu LSM405 của địch có hai tàu chiến PC04 và DCE2 yểm trợ từ phía biển tiến vào, đồng thời trực thăng đổ hai tiểu đoàn bộ binh chiếm các đỉnh cao quanh vịnh. Chúng dùng bộ binh từ các điểm cao đánh xuống, kết hợp tàu thủy đổ bộ, cả máy bay liên tục ném bom yểm hộ. Về sau này chúng tôi mới biết thêm: một tên tướng ngụy từ Sài Gòn bay ra trực tiếp chỉ huy trận này.
Lực lượng ta lúc này chỉ có một trung đội du kích Hòa Hiệp, hai tiểu đội bộ đội địa phương huyện và 18 thủy thủ, trong đó thuyền trưởng Thêm đã bị thương. Chúng tôi chia nhau đánh chặn không cho địch đến gần chỗ tàu và các hang đá còn giấu một số hàng từ các chuyến trước chở vào chưa kịp chuyển đi hết.
Suốt các ngày 17, 18 và 19 địch cố đổ bộ lên bờ mấy lần đều bị ta đánh bật lại. Đến chiều 19, một đại đội địch mới đặt chân được lên bờ. Ta vẫn tiếp tục bám đánh, ngày từng tổ đánh chặn, đêm tập kích bọn địch trú quân trên các đồi trọc. Cứ như vậy suốt các ngày 20, 21, 22 và 23.
Sáng 24, địch lại đổ thêm quân, triển khai từ đường số 1 và các điểm cao phía nam, phía bắc đánh xuống, siết vòng vây chúng tôi lại.
Nhận định lực lượng đã quá chênh lệch, đêm 24 chúng tôi dùng mìn phá nổ hết các hang đá chứa hàng và tổ chức thoát khỏi vòng vây.
Giai đoạn mới sau Vũng Rô
Anh Trần Phong, nguyên tham mưu trưởng Lữ đoàn 125, nói với chúng tôi:
- Vụ Vũng Rô là sự kiện lớn trong lịch sử con đường biển Đông. Nó chấm dứt một giai đoạn hoàn toàn bí mật của con đường này. Nhưng đương nhiên nó không kết thúc con đường, không dập tắt được quyết tâm lớn của chúng ta dùng biển Đông làm con đường quan trọng vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam đang ngày càng đánh lớn hơn. Nó chỉ mở ra một giai đoạn mới của quyết tâm đó. Gian nan hơn, ác liệt hơn, mặt đối mặt thi gan với kẻ thù trên mặt biển mênh mông.
Chúng tôi ráo riết theo dõi động tĩnh của địch.
Tháng 4-1965, tức chỉ gần hai tháng sau vụ Vũng Rô, chúng đã bắt đầu triển khai một chiến dịch mang tên Market time, phân công rõ ràng: hải quân ngụy tuần tiễu ven bờ, hải quân Mỹ, tức một bộ phận quan trọng hạm đội 7, ngăn chặn ngoài khơi. Một lực lượng đặc nhiệm của quân đội ngụy được tổ chức lấy tên là lực lượng 115, gồm bảy tàu khu trục hộ vệ, hai tàu quét mìn, hai tàu vận tải đổ bộ cỡ lớn, năm máy bay trinh sát.
Hải quân Mỹ thì đưa vào công việc này 54 tàu hiện đại. Đến tháng 9-1965, chúng lại tăng thêm năm tàu tuần tiễu ngoài khơi, 30 tàu tuần tiễu trên sông, chín tàu tuần tiễu ven bờ. Toàn bộ vùng ven biển miền Nam được tổ chức lại thành chín khu vực chiến đấu và năm trung tâm giám sát lớn…
Còn ta? Ta tạm dừng một thời gian để rút kinh nghiệm; ráo riết tổ chức, huấn luyện lại lực lượng; tăng thêm 12 tàu cao tốc. Cần có tàu cao tốc là vì chiến thuật thay đổi: tàu đi đến những vùng biển rất xa, đánh lạc hướng địch, rồi bất ngờ dùng tốc độ rất cao lao thẳng vào bờ, thời gian tàu đi trên vùng biển thuộc miền Nam do địch kiểm soát sẽ rất ngắn, vào bờ cất hàng xong, lại dùng tốc độ cao vượt qua thật nhanh vùng biển địch kiểm soát, lao ra vùng biển quốc tế an toàn.
Đó chính là để hạn chế khả năng chạm địch, buộc phải đánh địch trên biển hết sức bất lợi. Hạn chế chứ không loại trừ hoàn toàn được. Bởi Mỹ dùng máy bay trinh sát ngày đêm kiểm soát vùng trời rất rộng, tàu ta rời bến miền Bắc là nó có thể phát hiện được rồi và sẽ theo dõi ta suốt hành trình dài, chờ khi ta vào hải phận miền Nam là vây đánh…
Nghĩa là sau Vũng Rô, tiếp tục đi trên con đường biển Đông sẽ là một trò chơi ú tim lớn, ta hết sức cố gắng lừa địch, tránh địch, nhưng đồng thời cũng sẵn sàng chấp nhận đánh địch trên biển khi không còn khả năng nào khác.
Tháng 10-1965, tiếp tục mở lại con đường.
Một thời kỳ mới của con đường biển Đông đã bắt đầu…
Trò chơi ú tim trên biển Đông ngày càng quyết liệt. Từ 1966-1972, hầu như không chuyến đi nào của tàu không số là hoàn toàn yên ổn, trót lọt…
Một tàu tiếp tế không số từ miền Bắc bị bắn cháy
Xác chiếc tàu tiếp tế không số từ miền Bắc bị bắn cháy
Chiếc tàu không số từ miền Bắc này bị bắn chìm ngoài khơi Nha Trang năm 1968
Chiếc tàu không số này bị bắn cháy và bị bắt vào ngày 1-3-1968
Nhưng cuộc chiến đấu thì không dừng lại. Vũng Rô hiểm yếu bị phát hiện thì những bãi cát dài trống trải ven biển miền Trung lại được tìm làm bến đậu. Mấy mươi năm sau, nhà văn Nguyên Ngọc đã tìm về một bến đậu như vậy ở tỉnh Quảng Ngãi. Cũng từ đây ông nghe thấy không chỉ tiếng gầm của súng đạn…
NGUYÊN NGỌC
http://vietbao.vn/Phong-su/Bung-no-su-kien-Vung-Ro/40060817/263/
Chấm dứt bài viết đăng trên báo mạng Việt Báo
Dưới đây là một bài viết bên phía Cộng Sản Việt Nam của tác giả Ngô Minh
Tàu không số: nảy lửa ở Vũng Rô
Từ tháng 10/1962, chiếc tàu “Phương Đông I” chở thành công 30 tấn vũ khí từ Đồ Sơn đến Cà Mau, cho đến cuối năm 1964, đoàn tàu không số đã vượt biển Đông 87 chuyến, đưa được gần 5.000 tấn vũ khí, khí tài, hàng hóa vào Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Nhưng có một sự cố đã xảy ra ở Vũng Rô…
Tàu hỏng và bị lộ
Từ ngày 11/10/1962, chiếc thuyền gỗ đầu tiên được gọi là tàu “Phương Đông I” do thuyền trưởng Lê Văn Một và chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy chở 30 tấn vũ khí rời bến Vạn Sét, Đồ Sơn vào bến Vàm Lũng, Cà Mau thành công, cho đến cuối năm 1964, đoàn tàu không số đã vượt biển Đông 87 chuyến, đưa được gần 5.000 tấn vũ khí, khí tài, hàng hóa vào Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Trong 87 chuyến tàu ấy, có hai chuyến tàu vào bến Cồn Lợi (Bến Tre) và Bến Lộ giao (Bình Định), sau khi đã giao hàng xong thì phải hủy tàu để đảm bảo bí mật tuyệt đối, còn người và “hàng” lại đều an toàn.
Đặc biệt, từ 28/11/1964 đến 31/1/1965, tàu 41 của thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh là tàu lần đầu tiên cập bến Vũng Rô 3 lần liên tiếp, giao cho bến 180 tấn vũ khí và 6 cán bộ đi công tác an toàn tuyệt đối. Thế mà từ năm 1965 đến hết năm 1972, ta chỉ chở được 2000 tấn vũ khí vào miền Nam. Sự sụt giảm ấy do sự cố Vũng Rô gây ra.
Ngày 10/2/1965, tàu mamg ký hiệu 143 do thuyền trưởng Lê Văn Thiêm và chính trị viên Phan Văn Bảng chỉ huy cùng 16 cán bộ chiến sĩ rời cảng K20, chở 63 tấn vũ khí vào Vũng Rô (Phú Yên). Tàu đóng giả một tàu khai thác hải sản trên vùng biển quôc tế. Đang trên hành trình thì ban ngày, cứ vài tiếng lại có một chiếc máy bay của Mỹ bám theo tàu, có lúc sà xuống rất thấp. Ban đêm có hai tàu chiến địch đi kèm, chiếc phía trước, chiếc phía sau. Nhưng tàu 143 vẫn cứ đi.
23 giờ ngày 15/2/1965, tàu vào bến Vũng Rô. Bến đã tập trung lực lượng du kích xã Hòa Hiệp và cả tiểu đoàn 83, bộ đội chủ lực Quân khu 5 để bốc dỡ hàng vào các kho ở hang núi. Sau 4 tiếng đồng hồ số hàng trên tàu đã được bốc dỡ hết.
3 giờ sáng, tàu nhổ neo ra biển, nhưng neo bị hỏng. Khi sửa xong neo thì trời đã sáng bạch nên không thể quay tàu ra biển được. Phía trên bến Vũng Rô là Quốc lộ 1A, xe quân sự địch qua lại rất nhiều. Đỉnh Đèo Cả có đồn địch đóng. Phía biển có đồn Mũi Điện. Tình thế rất nguy hiểm. Thuyền trưởng cho tàu ép sát vào vách núi, lợi dụng vách đá và tán cây để che giấu tàu. Các thủy thủ và du kích nhanh chóng chặt các cành cây để phủ lên ca-bin và boong tàu để ngụy trang. Hai người được bố trí trông tàu, còn tất cả sơ tán lên bờ.
Một tài liệu lưu tại phòng quân báo Hải quân Mỹ cho biết, lúc đó khoảng 10 giờ ngày 16/2, một chiếc máy bay tải thương HU1B của Mỹ bay dọc quốc lộ 1 từ Quy Nhơn về Nha Trang. Khi bay qua Vũng Rô, viên phi công JS. Bowra phát hiện “mỏm đá” nhô ra khác thường, liền so sánh với những tấm không ảnh mà máy bay Mỹ chụp hàng ngày, thấy không khớp, nên viên phi công đã báo về Bộ chỉ huy khu vực duyên hải Nam Trung Bộ ở Nha Trang của Mỹ.
Sau đó một máy bay trinh sát bay tới Vũng Rô, ném xuống chỗ tàu của ta đang trú ẩn một quả pháo mù chỉ điểm mục tiêu. Một tốp máy bay khu trục A-1 Skyraiders lao đến bắn một loạt tên lửa làm cho lá ngụy trang trên tàu bốc cháy.
Cả con tàu phơi mình trước thanh thiên bạch nhật. Tàu 143 đã bị lộ.
Đương đầu với địch bảo vệ bí mật
Từ đó cuộc chiến đấu sinh tử đã xảy ra suốt cả tuần liền. Địch liên tục cho máy bay đến ném bom. Thuyền trưởng Lê Văn Thêm bị thương rất nặng. Không để tàu rơi vào tay địch, anh em quyết định bơi ra điểm hỏa bộc phá 500 cân đã cài sẵn trong tàu. Nhưng vì bom nổ làm cho tàu bị nghiêng nên hai thủy thủ không sao chui vào khoang máy được.
Ngày 17/2, địch cho tàu chiến, trực thăng đổ quân để bắt sống các thủy thủ, chiếm tàu. Đương đầu với mấy tiểu đoàn bộ binh, hàng chục chiếc máy bay của địch, bên ta chỉ có một trung đội du kích, 2 tiểu đội vũ trang địa phương và 18 anh em thủy thủ tàu 143. Thế mà địch không tài nào vào được khu vực bến Vũng Rô.
23 giờ ngày 15/2/1965, tàu vào bến Vũng Rô. Bến đã tập trung lực lượng du kích xã Hòa Hiệp và cả tiểu đoàn 83, bộ đội chủ lực Quân khu 5 để bốc dỡ hàng vào các kho ở hang núi. Sau 4 tiếng đồng hồ số hàng trên tàu đã được bốc dỡ hết.
3 giờ sáng, tàu nhổ neo ra biển, nhưng neo bị hỏng. Khi sửa xong neo thì trời đã sáng bạch nên không thể quay tàu ra biển được. Phía trên bến Vũng Rô là Quốc lộ 1A, xe quân sự địch qua lại rất nhiều. Đỉnh Đèo Cả có đồn địch đóng. Phía biển có đồn Mũi Điện. Tình thế rất nguy hiểm. Thuyền trưởng cho tàu ép sát vào vách núi, lợi dụng vách đá và tán cây để che giấu tàu. Các thủy thủ và du kích nhanh chóng chặt các cành cây để phủ lên ca-bin và boong tàu để ngụy trang. Hai người được bố trí trông tàu, còn tất cả sơ tán lên bờ.
Một tài liệu lưu tại phòng quân báo Hải quân Mỹ cho biết, lúc đó khoảng 10 giờ ngày 16/2, một chiếc máy bay tải thương HU1B của Mỹ bay dọc quốc lộ 1 từ Quy Nhơn về Nha Trang. Khi bay qua Vũng Rô, viên phi công JS. Bowra phát hiện “mỏm đá” nhô ra khác thường, liền so sánh với những tấm không ảnh mà máy bay Mỹ chụp hàng ngày, thấy không khớp, nên viên phi công đã báo về Bộ chỉ huy khu vực duyên hải Nam Trung Bộ ở Nha Trang của Mỹ.
Sau đó một máy bay trinh sát bay tới Vũng Rô, ném xuống chỗ tàu của ta đang trú ẩn một quả pháo mù chỉ điểm mục tiêu. Một tốp máy bay khu trục A-1 Skyraiders lao đến bắn một loạt tên lửa làm cho lá ngụy trang trên tàu bốc cháy.
Cả con tàu phơi mình trước thanh thiên bạch nhật. Tàu 143 đã bị lộ.
Đương đầu với địch bảo vệ bí mật
Từ đó cuộc chiến đấu sinh tử đã xảy ra suốt cả tuần liền. Địch liên tục cho máy bay đến ném bom. Thuyền trưởng Lê Văn Thêm bị thương rất nặng. Không để tàu rơi vào tay địch, anh em quyết định bơi ra điểm hỏa bộc phá 500 cân đã cài sẵn trong tàu. Nhưng vì bom nổ làm cho tàu bị nghiêng nên hai thủy thủ không sao chui vào khoang máy được.
Ngày 17/2, địch cho tàu chiến, trực thăng đổ quân để bắt sống các thủy thủ, chiếm tàu. Đương đầu với mấy tiểu đoàn bộ binh, hàng chục chiếc máy bay của địch, bên ta chỉ có một trung đội du kích, 2 tiểu đội vũ trang địa phương và 18 anh em thủy thủ tàu 143. Thế mà địch không tài nào vào được khu vực bến Vũng Rô.
Tối 17/2, một tổ công binh được phái đến dùng bộc phá hỗ trợ để hủy tàu. Song bộc phá gài sẵn của tàu vẫn không nổ, nên tàu không phá hủy hoàn toàn được. Gần một tuần đánh nhau với lực lượng địch đông gấp nhiều lần, một số đồng chí của ta bị thương và hy sinh, sức lực anh em yếu dần, chỉ huy quyết định dùng mìn tiêu hủy số hàng mới đưa vào chưa kịp chuyển đi và phá vòng vây rút lên rừng.
Mấy ngày sau đó, bọn Mỹ cho biệt kích “người nhái” tới chỗ tàu chìm lặn mò, tìm được một số tài liệu liên quan đến con tàu và số vũ khí chưa kịp tiêu hủy, đồng thời tháo gỡ một số bộ phận của tàu 143.
Rồi chúng đưa những thứ đó vào Sài Gòn tổ chức cuộc triển lãm rùm beng: “Chiến tích thu được từ tàu chở vũ khí Bắc Việt tiếp tế cho Cộng sản ở Trung Bộ bằng đường biển”. Sau đó trên tờ Naval Institute Press, đại tá Mỹ R.Schrosbay nói: “Vụ Vũng Rô khẳng định điều đã ngờ trong một thời gian dài nhưng chưa có bằng chứng. Số lượng chiến cụ lớn bị phát hiện chỉ ra rằng nhiều lô hàng lớn hơn đã được chở đến bằng tàu trước đó...”. Thực tế thì trước đó thuyền trưởng Hồ Đức Thắng, người Phú Yên đã ba chuyến cập bến Vũng Rô an toàn với 180 tấn vũ khí và nhiều hàng hóa, quân trang khác.
Một số vũ khí hiện đại như DKZ, B40, B41, trọng liên 7,62 ly, súng 12,7 ly... xuất hiện trên chiến trường các tỉnh duyên hải Khu 5 đã làm cho địch nghi vấn, cảnh giác. Mặt khác việc ngụy trang tàu chưa tốt, việc bảo vệ các tài liệu và hủy tàu chưa thực hiện tốt.
Mấy ngày sau đó, bọn Mỹ cho biệt kích “người nhái” tới chỗ tàu chìm lặn mò, tìm được một số tài liệu liên quan đến con tàu và số vũ khí chưa kịp tiêu hủy, đồng thời tháo gỡ một số bộ phận của tàu 143.
Rồi chúng đưa những thứ đó vào Sài Gòn tổ chức cuộc triển lãm rùm beng: “Chiến tích thu được từ tàu chở vũ khí Bắc Việt tiếp tế cho Cộng sản ở Trung Bộ bằng đường biển”. Sau đó trên tờ Naval Institute Press, đại tá Mỹ R.Schrosbay nói: “Vụ Vũng Rô khẳng định điều đã ngờ trong một thời gian dài nhưng chưa có bằng chứng. Số lượng chiến cụ lớn bị phát hiện chỉ ra rằng nhiều lô hàng lớn hơn đã được chở đến bằng tàu trước đó...”. Thực tế thì trước đó thuyền trưởng Hồ Đức Thắng, người Phú Yên đã ba chuyến cập bến Vũng Rô an toàn với 180 tấn vũ khí và nhiều hàng hóa, quân trang khác.
Một số vũ khí hiện đại như DKZ, B40, B41, trọng liên 7,62 ly, súng 12,7 ly... xuất hiện trên chiến trường các tỉnh duyên hải Khu 5 đã làm cho địch nghi vấn, cảnh giác. Mặt khác việc ngụy trang tàu chưa tốt, việc bảo vệ các tài liệu và hủy tàu chưa thực hiện tốt.
Súng DKZ (Đại bác Không Zật)
Vẫn chạy về phương nam
Đoàn 125 nhận định: “Như vậy con đường vận chuyển vũ khí bí mật trên biển Đông đã bị địch phát hiện, không còn bí mật tuyệt đối nữa. Đó là một tổn thất to lớn. Sự kiện Vũng Rô xảy ra đã làm thay đổi tình thế. Từ đây việc vận chuyển chi viện cho miền Nam sẽ gian khổ, khó khăn phức tạp hơn”.
Được tin tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô, Tổng tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã chỉ thị Hải quân ngừng ngay việc vận chiển vào miền Nam, tổ chức rút kinh nghiệm từ các cơ quan chỉ huy đến đơn vị tàu và khẩn trương nghiên cứu phương thức vận chuyển mới.
Thời kỳ sau khi tàu 143 bị lộ ở Vũng Rô, địch ráo riết tăng cường lực lượng tàu chiến, máy bay tuần tra suốt ngày đêm trên biển Đông. Chúng kiểm soát cả đường hàng hải quốc tế ngoài hải phận Việt Nam. Đây là thời kỳ khó khăn nhất của đường Hồ Chí Minh trên biển.
Nhưng không có gì ngăn cản được đoàn tàu không số. Những con tàu bằng cách này hay cách khác, bất chấp hiểm nguy, vẫn tiếp tục chạy về phương nam…
Ngô Minh
Dưới đây là bài viết của ông Lê Đình An, một binh sĩ thuộc Lực Lượng Người Nhái Việt Nam Cộng Hòa, đã từng tham gia trận Vũng Rô:
Hành Quân Phá Hủy Mật Khu Vũng Rô
Tác giả: Lê Đình An
Ghi Chú: Bài viết nầy chỉ lược thuật riêng về nhiệm vụ của Người Nhái trong cuộc hành quân vĩ đại nầy gồm nhiều quân, binh chủng phối hợp.
Khoảng 12 giờ trưa Ngày 16-3- 1965,…phòng trực Người Nhái nhận được công điện khẩn của Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Phòng 3. Tổ trực công tác hai người, tôi và Đạt (Gồ) với đầy đủ trang bị lên quân xa đưa chúng tôi vào phi trường bên MACV của Hoa Kỳ và được phản lực cơ loại nhỏ đang chờ sẵn và đưa chúng tôi đến phi trường Chu Lai. Trực thăng Việt Nam bốc chúng tôi đến Vũng Rô, đáp xuống tại quốc lộ 1 gần Vũng Rô, chúng tôi được anh em hải thuyền đón tiếp xuống chiếc Yabuta do anh Trung Sĩ 1 Nguyễn Hữu Phước (Phước Râu.) làm thuyền trưởng. Lúc đó khoảng 3 giờ rưởi chiều.
Trong lúc chờ đợi lệnh của Hộ Tống Hạm HQ. 08, chúng tôi dùng cơm với anh em hải thuyền. Khoảng nửa giờ sau chúng tôi nhận lệnh từ máy vô tuyến HQ 8, tổ người nhái đi vào thám sát tình hình trong vịnh và HQ08 ứng chiến.
Hải thuyền Yabuta
Chiếc hải thuyền Yabuta chạy vào lòng địch với nhiệm sở tác chiến, chúng tôi cũng sẵn sàng với các khẩu súng cơ hữu của hải thuyền. Đại liên 12.7, đại bác 20 ly đều hướng về mục tiêu bên trái phía sườn núi nơi chiếc Tàu Trung Cộng được ngụy trang bằng nhiều tàng cây trên boong tàu, chở vũ khí bí mật xâm nhập vào vịnh Vũng Rô bị phản lực cơ tuần thám của Không Quân Hoa Kỳ phát giác và bị bắn chìm gần sát bờ cạnh triền núi.
Khi chiếc ghe hải thuyền tiến vào còn cách bờ khoảng 300 thước thì bị thượng liên và súng tự động cá nhân Việt Cộng trên triền núi bắn xuống dữ dội, chiếc hải thuyền chúng tôi phản pháo và báo cáo cho HQ.08. Chúng tôi được lệnh rút lui ra, đại liên địch bắn theo xối xả. Khi rút ra khỏi tầm đạn, chiếc hải thuyền bị bắn tét be ghe mấy chỗ, cũng may thủy thủ đoàn không ai bị thương.
Hộ Tống Hạm HQ 08 tiến vào vịnh và nã trọng pháo 76 ly, 40 ly và 20 ly v.v. vào các điểm đại liên Việt Cộng vừa phát hiện khi giao chiến với hải thuyền. Khoảng nửa giờ sau ngưng bắn, HQ.08 rút ra án ngữ cửa vịnh. Qua sự hướng dẫn và chỉ điểm của HQ.08, Không Quân Việt Nam bắt đầu phi pháo và oanh kích, tiếp theo trực thăng bay đến đậu lại trên không bắn đại liên 6 nòng và phóng hỏa tiễn vào các ổ pháo của Việt Cộng như những con khủng long phun lửa khói mịt mù.Chúng tôi được biết Tư Lệnh chiến trường cuộc hành quân nầy là Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Qua sự điều động của Phó Đề Đốc Thoại trong đêm các chiến hạm công tác quanh vùng gần đó đều tập trung và bao vây vùng biển Vũng Rô. Còn trên bộ do quân khu 2 điều quân bao vây vùng đồi núi và tiến quân vượt núi tấn công xuống vịnh Vũng Rô..
Buổi sáng tinh sương, một trận oanh tạc dữ dội của Không Quân để mở màn cho các chiến hạm Hải Quân tiến theo đội hình vào vịnh. Tất cả trọng pháo, đại bác trên tàu đều thi nhau trực xạ vào hai bên sườn núi. Các ổ đại liên của Việt cộng ẩn trong các hang động nên phi cơ oanh kích không tiêu diệt được. Chúng cũng phản công lại mãnh liệt..Tiếng súng đạn vang rền, khói súng mờ mịt che khuất cả mặt vịnh. Khi chiến hạm HQ 403 tiến vào tầm tác xạ của địch, một thủy thủ bị trúng viên đạn xuyên qua kẽ hở cao độ của bửng sắt che đạn khẩu đại bác 20 ly trúng ngay giữa trán nên chết liền tại chỗ.
Trên chiếc hải thuyền chúng tôi đã được tăng cường thêm mười lăm(15) người nhái và Cố Vấn người nhái Đại Úy Franlin W Anderson từ Sài Gòn ra với đầy đủ trang bị. Chiếc xuồng cao su Zodiac chở người nhái sẵn sàng đổ bộ nương theo sau chiến hạm tiến lần vào…
Xuồng cao su Zodiac
Sau hơn một giờ quần thảo, tiếng súng của địch đã giảm lần, toán người nhái chúng tôi được lệnh đổ bộ lên bãi.
Chiếc xuồng cao su tách rời chiếc hải thuyền, và ẩn mình theo các chiến hạm rồi vượt nhanh lên phía trước tiến thẳng vào bãi cát khoảng vài trăm thước dưới làn mưa đạn hải pháo bắn yểm trợ. Toán người nhái với vũ khí cá nhân nằm rạp trên xuồng cao su lao nhanh vào bờ, khi chiếc xuồng vừa chạm bãi cát, toán người nhái cấp tốc dàn đội hình vừa bắn vừa tiến nhanh vào sườn núi và mở rộng vòng đai an toàn trên bãi cát lập đầu cầu cho tàu đổ quân, trong lúc đó chiếc Hải Vận Hạm HQ 405 mở cửa Ram ủi bãi.
Một đại đội Biệt Kích Dù tràn lên bờ tiến sâu vào sườn núi tiến chiếm các mục tiêu trải rộng hai bên dải núi của vịnh..Toán người nhái hoàn thành công tác lập đầu cầu cho quân đổ bộ xong. Toán người nhái trở lại xuồng trực chỉ tiến vào nơi chiếc tàu chở vũ khí bị dội bom chìm cách bờ khoảng chừng 50 thước nhưng vì địa thế nơi đây không có bãi cát, vách núi thoai thoải hơi dốc đứng,. Xuồng cao su ủi vào bãi, các người nhái nhảy lên bờ lập vòng đai và lục soát quanh khu vực tìm thấy 2 khẩu cao xạ phòng không và vũ khí cá nhân đủ loại rơi rải cùng nhiều xác chết văng tung tóe khắp nơi, đặc biệt có mấy xác chết bị xiềng chân vào 2 khẩu cao xạ. Tịch thu một số tài liệu và một số giấy bạc 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa còn mới tinh..
Tôi là một trong ba tổ mang bình hơi lặn xuống thám sát nơi tàu chìm sâu chừng 7-8 thước nước. Chiếc tàu ngụy trang bằng nhiều nhánh cây trên boong tàu bị chìm nghiêng nghiêng theo triền vách đá của bờ, phía ngoài tàu có chữ của Trung Cộng. Khi lặn vào trong khoang tàu nơi phòng lái, từ chiếc la bàn, bản đồ hải trình và chiếc đồng hồ treo trong phòng lái đều là chữ Trung Cộng..và một cái chân bị đứt ngang nơi háng còn dính vải ống quần đang nổi lềnh bềnh trong phòng lái… Tại khoang tàu chở hàng chúng tôi vớt lên một số súng ống đạn dược và thuốc men
Kết quả công cuộc khám phá mật khu Vũng Rô đã tìm thấy hai hang động Việt Cộng đã dấu vũ khí và thuốc men tại Vũng Rô và thung lũng Đá Bí tổng cộng lên đến 100 tấn, toàn là vũ khí mới loại tự động như AK47,AK50 và B40 B41.v.v. còn quấn vải tẩm mở dầu bó lại từng bó được gom lại trên bãi biển như những đống củi thước đầy trên bãi cát trong vịnh…Việc thu dọn chiến lợi phẩm phải mất mấy ngày mới dọn dẹp xong.
Vào khoảng thời gian nầy quân đội Việt Nam Cộng Hòa chưa được trang bị súng cá nhân tự động, chỉ có súng Gagrant M1, Carbine M1 và một số Carbine M2 dành trang bị cho các đơn vị thiện chiến như Nhảy Dù, TQLC.v.v Mải cho đến sau Tết Mậu Thân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới được lần lượt thay thế súng tự động M16 và trang bị loại chống chiến xa M72. Trong khi đó Việt Cộng đã được khối Cộng Sản viện trợ trang bị súng tự động cá nhân từ năm 1965 như tại mật khu Vũng Rô nầy.
Sau khi hoàn thành công tác người nhái chúng tôi được đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha trang để nghĩ ngơi, vài ngày sau chiến hạm đưa chúng tôi trở về bộ chỉ huy Liên Đoàn Người Nhái tại Sàigòn.
NN Lê Đình An – 2004
Các thùng đạn được vớt lên bỏ lên bãi ngay trong vịnh
Ước lượng khoảng trên 100 tấn vũ khí đã bị tịch thu
Một thùng đạn
Một thùng đạn có ghi chữ Trung Quốc
Một số thùng đạn trong số hơn một triệu viên đạn tịch thu được
Hơn 3500 súng trường và súng tiểu liên mới còn bọc trong vải tẩm dầu
Vũ khí chống tăng do Trung Quốc chế tạo
Người Nhái đứng trên hải thuyền (bên phải) cạnh chiếc tàu bị đánh chìm (bên trái)
Ảnh chụp các chiến sĩ Hải quân và Người Nhái trước chiến lợi phẩm
Trận Vũng Rô
Trích Cánh Thép
Ngày 18 tháng 2 năm 1965
Từ những năm trong thập niên 60, tình báo Việt-Mỹ đã ghi nhận được những sự xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) vào Miền Nam Việt Nam. Các báo cáo của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm soát Đình chiến (International Control Commission =ICC) đặt ra do Hiệp định Geneve (1954), đã viết trong năm 1962 : ‘ Nhân sự võ trang và không võ trang, võ khí, đạn dược và các trang, thiết bị quân sự khác đã được gửi từ Miền Bắc xuống Miền Nam với mục đích yểm trợ, tổ chức hoặc tiếp tục các hành vi chống đối, kể cả tấn công các lực lượng an ninh của Miền Nam..’ Báo cáo này dĩ nhiên là gặp sự phản đối của Phái đoàn Ba Lan trong ICC.
Vấn đề đặt ra cho các giới chức quân sự Việt-Mỹ là : mọi người đều đồng ý về việc có sự xâm nhập từ Miền Bắc, nhưng lại chưa đồng ý về phương thức xâm nhập : một phái cho rằng bằng đường biển, phái khác cho là bằng đường bộ, qua những vùng rừng núi dọc biên giới giữa Việt-Lào và Việt-Miên, và một phái nữa, thực tế hơn, cho rằng qua cả hai đường kể trên.
Đến tháng 12 năm 1961, các tàu vớt mìn MSO (MineSweeper, Ocean) của HQ HK bắt đầu phối hợp với HQ VN để tuần phòng vùng biển của VNCH, phía Nam vĩ tuyến 17. Các chiến hạm HK không trực tiếp chặn xét tàu bè nhưng dùng radar để tìm các mục tiêu khả nghi và thông báo cho chiến hạm HQ VNCH để thực hiện việc chặn xét và lục soát. Ba chiến hạm HQVN cùng tham dự các hoạt động này là HQ 114 (Hàm Tử II), HQ 115 (Chương Dương II) và HQ 116 (Bạch Đằng II) . Đây là những chiến hạm được Hoa Kỳ chuyển giao cho VN vào năm 1959.
Trục lôi hạm (Tàu vét mìn) HQ-114 Hàm Tử II
Đến tháng 2 năm 1962, chương trình tuần phòng được mở rộng hơn về phía Vịnh Thái Lan với sự tham dự của các Khu trục hạm HK loại Destroyer Escort (DE).
Tuy nhiên, các chương trình tuần tiễu hỗn hợp này bị đánh giá là không hữu hiệu nên được chấm dứt vào tháng 8 năm 1962. HQ Thiếu Tá Chung Tấn Cang, Chỉ huy trưởng Hành quân của HQVNCH vẫn tin rằng 60% số lượng xâm nhập và tiếp tế của CSBV vào Miền Nam là do đường biển (?).
Từ 1964, một phái đoàn nghiên cứu đặc biệt của HQ HK do Đại Tá Phil Bucklew hướng dẫn đã tìm hiểu vấn đế tiếp vận của CS và sau khi đến rất nhiều địa điểm : từ các tiền đồn hẻo lánh trên vùng Cao nguyên đến các vùng đầm lầy Năm Căn, các hải đảo nhỏ ngoài khơi Biển Ddông và Vịnh Thái Lan.. Phái đoàn này đã nhìn tận mắt các loại vỏ khí bị tịch thu như AK-47 của Liên Sô, đại liên 7 ly 62, súng cối 82 từ Nga, Trung cộng.. Ngày 15 tháng 2 năm 1964, ĐT Bucklew đưa ra bản phúc trình :..’Nhiều bằng chứng cho thấy việc xâm nhập nhân sự từ BV vào Miền Nam , phần chính là bằng đường bộ, trong khi đó hệ thống sông ngòi chằng chịt của miền châu thổ sông Cửu Long là những đường tiếp vận lý tưởng để vận chuyển các thiết bị quân sự nặng. Việc sử dụng các ghe đi biển và các tàu thuyền đánh cá để đưa người vào Nam VN đã nhiều lần bị chặn bắt. Một số các súng đạn hạng nặng cũng đã được đưa vào miền Trung bằng các phương thức tương tự. Các võ khí và binh sĩ CSBV bị bắt trên đảo Phú Quốc cho thấy có sự xâm nhập từ phía Vịnh Thái Lan..’
Đại liên PK, 7,62 mm, Liên Xô chế tạo
Trên thực tế thì ngay từ 1959, CSBV đã thành lập Đoàn 559 để tổ chức đưa người vào Nam VN bằng đường bộ và sau đó thành lập Đoàn 759 để lo việc đưa người và võ khí xâm nhập bằng đường biển. Lực lượng chính trong việc chuyển vận là Đơn vị vận tải đường biển số 125 của Quân đội BV. Chuyến đưa vũ khí bằng đường biển đầu tiên vào Nam VN đưởc thực hiện vào mùa Thu 1962, và nơi đổ hàng là Cà Mâu (BV gọi dường xâm nhập này là ‘ Đường HCM trên biển)
Lộ trình các chuyến Tàu Không Số chở vũ khí từ miền Bắc vào
Mười giờ sáng ngày 16 tháng 2 năm 1965, Trung úy phi công James Bowers, bay một phi vụ trực thăng UH-1B tải thương(1) của Lục quân HK, từ Qui Nhơn về Nha Trang, thời tiết xấu đã khiến anh phải thay đổi phi trình, thay vì bay trong đất liền, phi cơ đã bay dọc theo bờ biển. Đến 10 giờ 30, sau khi vượt qua Hải đăng ỡ Mũi Varella, vòng theo một vịnh nhỏ mang tên là Vũng Rô (235 miles phía Bắc Sàigòn), anh nhìn xuống vịnh và thấy một đảo nhỏ hình dạng hơi lạ, đầy cây..đang di động ! Khi hạ thấp cao độ để quan sát thì anh ghi nhận được đây là một tàu đánh cá được ngụy trang với cây đặt trên sàn tàụ Tr/U Bowers đã khẩn cấp báo ngay cho Trung Tá Harvey Rogers, Cố vấn trưởng HK tại Bộ Chỉ huy Vùng 2 Duyên Hải đặt tại Nha Trang và Tr/T Rogers đã thông báo cho HQ Trung Tá Hồ văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Vùng 2 Duyên hải VNCH yêu cầu gửi ngay phi cơ đến quan sát sự kiện.
Chiếc tàu được ghi nhận là thuộc loại tàu đánh cá ven biển, dài khoảng 45 m, trọng tải chừng 100 tấn.
Quan điểm của HK là dùng phi cơ oanh kích để đánh chìm chiếc tàu này, nhưng Tư lệnh Vùng 2, Tướng Nguyễn Hữu Có lại muốn bắt sống chiếc tàu để dùng lang tang chứng cho sự xâm nhập của CSBV từ Miền Bắc..do đó HQ VNCH đã dùng toàn bộ số chiến hạm khả dụng trong khu vực để chặn kín đường thoát, dồn chiếc tàu BV vào trong vùng vịnh..
Tr/T Thoại đã liên lạc với Thiếu Tá Nguyễn Huy Ánh, Không đoàn trưởng KĐ 62 để yêu cầu KQ can thiệp.
(Phi vụ đặc biệt này đã được Phi công ‘ Phượng Hoàng Kim Cương’ ghi lại trong bài Chiến thắng Vũng Rô trên Cánh Thép (canhthep.com) với những chi tiết tóm lưuợc như sau : Trong phi vụ này tác giả cùng bay với Tr/U Chánh. Phi vụ gồm 2 A-1, danh hiệu Phượng Hoàng 1-1, cất cánh từ Biên Hòa đi Nha Trang và sẽ nhận mục tiêu oanh kích khi bay trên không phận Nha Trang. Phòng hành quân chiến cuộc KĐ 62, danh hiệu vô tuyến Phi vân đã xác định mục tiêu là một chiếc tầu nhỏ không tên, chỡ vũ khí của VC đang ở trong vùng..không có FAC hướng dẫn, coi chừng phòng không12 ly 7 ở các sườn núi quanh đó..
Súng phòng không DShK 12.7mm do Liên Xô chế tạo
Phượng Hoàng 1-1 đã bay vào Đại Lãnh dọc theo bờ biển, ở cao độ 2000 bộ, sau đó vào vịnh Vân Phong và xuống thấp hơn để quan sát và tìm mục tiêụ Sau khi xuống thấp đến 500 bộ, phi tuần đã tìm thấy mục tiêu là một chiếc tầu đang chạy thẳng vào vịnh, hai làn sóng trắng rẽ thành hình chữ V sau tàu.. Chỉ sau một đợt thả 2 trái bom MK-1, tuy không trúng mục tiêu nhưng chiếc tảu do bị sóng dồn đã bị lật úp..mắc cạn. (2).
Trung tá Thoại sau đó đã yêu cầu Tướng Lữ Lan, Tư lệnh SĐ 23 ra lệnh cho Trung Đoàn 49 trú đóng tại Tuy Hòa đưa bộ binh đến nơi tàu chìm. Ông cũng dùng Quân vận hạm HQ 405(Tiền Giang) từ Nha Trang di chuyển đến Vũng Rô. Các đơn vị thuộc Duyên đoàn 24 cũng được lệnh yểm trợ, đồng thời xin Bộ Tư lệnh HQ khẩn cấp gửi người nhái đến địa điểm tàu chìm để trục vớt.
Tuy nhiên các yêu cầu của Tr/T Thoại về các phi vụ thả hỏa châu và oanh kích trong đêm 16 rạng 17 đã không được đáp ứng..Một phi cơ quan sát đã báo cáo có một số hoạt động của địch quân trong khu vực, có ánh đèn từ phía tàu chìm và các di chuyển giữa tàu và bờ..
Sáng sớm ngày 17, HQ 405 đến Tuy Hòa để chuyển quân thì gẵp sự từ chối của Trung Tá Trần Bá (Trung đoàn trường TrĐ 49) viện lý do khu vực quanh Vũng Rô và Mủi Varella tập trung các lực lượng CQ khá đông
Đến 2 giờ 30 chiều 17, HQ 405 trở lại Vũng Rô và khi tiến vào Vịnh đã gặp tác xạ dữ dội từ bờ biển phía Bắc..
Ngày 18 tháng 2, một cuộc họp được triệu tập tại Nha Trang với sự tham dự của Tướng William E Dupuy, Trưởng Phòng 3 MAC-V cùng các sĩ quan Đại diện SĐ 23 BB, Đại diện HQ VN, HQ HK và Lực lượng ĐB VNCH. Một kế hoạch hành quân đã được đưa ra : 2 Tiểu đoàn BB thuộc Tr/Đ 49 tiến quân vào vị trí ngăn chặn, dọc Quốc lộ 1 từ Đèo Cả xuống phía Nam, trong đó 1 Đại đội sẽ từ Tiền đồn Đèo Cả tiến xuống bờ biển. Một Đại đội LLĐB sẽ được trực thăng vận đến Đại Lãnh (phía Nam Vũng Rô) và sẽ lên Hải vận hạm HQ 405 để đổ bộ vào nơi tàu BV mắc cạn..
Trong lúc cuộc họp đang diễn tiến, HQ VNCH tiếp tục gửi lực lượng tăng viện đến vùng hành quân : Hộ tống hạm HQ 08 (Chi Lăng 2) do HQ Th/tá trịnh Quang Xuân làm hạm trưởng đã đến Vũng Rô để hợp lực với HQ 405 (HQ Th/tá Nhan Chấn Toàn là hạm trưởng). Sau đó HQ 08 được Tr/T dùng làm soái hạm trong cuộc hành quân. 2 chiến hạm tiếp tục dùng hải pháo oanh kích vào các mục tiêu trên bờ. Sau đó HQ 405 di chuyển về Đại Lãnh để đón ĐĐ LLĐB.. Nhưng đến 5 giờ chiều, có lệnh tạm hoãn cuộc đổ quân..
Trong đêm 18 tháng 2, Hộ tống hạm HQ 04 (Tuy Động) do HQ Đ/U Trần văn Triết làm hạm trưởng, đã đến khu vực hành quân, chở trên tàu 15 Người nhái HQVN cùng Đ/U Franklin Anderson, Cố vấn LL Người nhái . Đồng thời Bộ Tư lệnh HQ cũng gửi thêm Dương vận hạm HQ 502 (Thị Nại) do Th/T Ngô Khắc Luân làm hạm trưởng đến để tăng cường cho lực lượng.
Ngay 8 giờ sáng ngày 10, sau đợt oanh kích của KQ VNCH, cả 3 chiến hạm cùng tiến vào vịnh, nhưng khi đến cách bờ khoảng 500m vẫn bị súng từ bờ bắn ra dữ dội, nên các chiến hạm phải lùi ra và các phi cơ tiếp tục oanh kích..Sau 2 đợt oanh kích tiếp theo..đến 11 giờ ĐĐ LLĐB đổ được vào bờ biển, tuy vẫn bị bắn sẻ nhưng các chiến sĩ LLĐB đã bảo vệ được khu vực và công việc trục vớt bắt đầu..
( Trong tập sách : Can trường trong Chiến bại, Phó Đề đốc Hồ văn Kỳ Thoại, đã ghi lại cuộc đổ quân này như sau :
..’ Đúng 8 giờ sáng, khu trục cơ của KQ bắt đầu dội bom xuống bải biển. Ba chiến hạm từ từ tiến vào gần bờ. Sau khi phi cơ oanh tạc xong, HQ 405 bắt đầu tác xạ vào bờ để chuẩn bị cho Đại đội BK Dù đổ bộ. Khi đến cách bờ khoảng nửa hải lý thình lình từ trong bở địch bắn dữ dội vào HQ 405. Sự bắn trả bất thình lình làm cho Th/T Toàn cho chiến hạm ngưng lại, không tiến lên nữạ trong một giây khắc tôi phải lấy một quyết định sinh tử. Tôi thông cảm với Th/T Toàn về trách nhiệm của người hạm trưởng nhưng tôi cần phải quyết định gấp vì HQ 405 đang thành một mục tiêu không di động. Qua máy vô tuyến tôi nói với Toàn : Không thể trở ra được nữa,anh đã quá gần bờ, yêu cẩu anh ủi bãi luôn..Th/T Toàn ra lịnh cho chiến hạm chạy thật nhanh thẵng vào bờ. Cụa chiến hạm mở ra và ĐĐ Biệt kích chạy thật nhanh từ cửa chiến hạm vào thẳng trong các bụi rậm ở bãi biển..’ )
Trong bài ‘Nhiệm vụ của Người Nhái trong cuộc Hành quân Phá hủy Mật khu Vũng Rô 1965’ của NN Lê Đình An, trên trang Web của ThuVien VN, đã ghi lại những hoạt động của Người Nháị Tác giả Lê Đình An có một số sai lầm về danh hiệu các Chiến hạm trong Trận như HQ5 (HQ VNCH chỉ nhận Chiến hạm này vào năm 1971), hình chụp HQ 406, nhưng Chiến hạm tham chiến là HQ 405, Người Chỉ huy Trận là HQ Tr/T Hồ văn Kỳ Thoại, không phải là Tr/T Hoàng Cơ Minh...)
NN Lê đình An viết :
..’.. khoàng 12 giờ trưa, phòng trực NN nhận công điện khẩn của BTL/HQ/P3..Tổ trực công tác 2 người, tôi và Đạt với đầy đủ trang bị được quân xa đưa chúng tôi vào phi trường bên MAC-V và chúng tôi được phản lực cơ loại nhỏ đưa đến phi trường Chu Laị Trực thăng VN bốc chúng tôi đến Vũng Rô, đáp xuống Quốc lộ 1, và chúng tôi được đón tiếp xuống chiếc Yabutạ Lúc đó khoảng 3 giờ rưởi chiều..
Sau khi nhận lệnh từ HQ 5 (ghi chú của Trần Lý: có lẽ từ HQ 405?), tổ NN đi vào thám sát tình hình trong vịnh. Chiếc Yabuta chạy vào lòng địch với nhiệm sở tác chiến, khi chiếc ghe tiến vào bờ còn chừng 300 m thỉ bị thượng liên và súng cá nhân VC trên triền núi bắn xuống dữ dội.. Chúng tôi đưọc lệnh rút lui ra..
..Ngày hôm sau, trên chiếc hải thuyền, chúng tôi đã được tăng cường thêm 15 NN từ Sài gòn ra với đầy đủ trang bị.. Chiếc xuồng cao su Zodiac chỡ NN sẵn sàng đổ bộ theo hải thuyền nương sau chiến hạm tiến dần vào..
Sau hơn 1 giờ oanh kích, tiếng sùng của địch giảm lần và toán NN chúng tôi được lệnh đổ bộ lên bãi..Chiếc xuồng cao su tách khỏi hải thuyền , vượt nhanh lên phía trước tiến thẳng vào bãi cát dưới làn mưa đạn hải pháo bắn yểm trợ. Toán NN với vũ khí cá nhân, nằm rạp trên xuồng caosu lao nhanh vào bờ, khi chiếc xuồng vừa chạm cát, toán NN cấp tốc dàn đội hình, vừa bắn vừa tiến nhanh vào sườn núi và mở rộng vòng đai an toàn trên bãi cát, lập đầu cầu cho tàu đổ quân...trong lúc đó một chiếc Hải vận hạm mở cửa Ram ủi bãi..’
Không xa nơi đổ bộ, Lực lượng hành quân đã khám phá được một hang cất giấu quân dụng với khoảng 4000 súng đủ loại gồm súng trường, tiểu liên cùng hàng ngàn thùng đạn, dược phẩm.. Đến 6 giờ 30 chiều, HQ 405 đã đổ bộ thêm 1 ĐD Bộ binh để giúp lục soát..
Các cuộc lục soát được tiếp tục cho đến ngày 24 tháng 2..
Diễn tiến cuộc lục soát được PĐĐ Thoại ghi lại thêm các chi tiết :
‘.. Việc di chuyển súng đạn tịch thu gặp rất nhiều khó khăn vì toán quân của LLĐB từ chối khiêng đạn lên tàụ Thủy thủ đoàn cùng với một số quân nhân BB khác cũng cố gắng đem lên tàu và chở về Nha Trang được trên 2000 súng và hơn trăm tấn đạn.
Về đêm ĐĐ Biệt kích do Tr/U Từ Vấn chỉ huy từ chối ở lại bờ ban đêm nên t6i cho họ trở lên HQ 405. Đêm hôm đó, tôi được lịnh từ Sàigòn phải đổ bộ ĐĐ này trở lại bờ ngày hôm saụ Từ ngày 20 đến 24 tháng 2, cuộc lục soát tiếp diễn trong khi chiến hạm dùng hải pháo bắn lên sườn núị Trong ngày 24 một quả đạn trọng pháo tình cờ rơi trúng một hầm đạn trên núi, nổ tung làm rung động cả vùng..’
Kết quả : Số lượng trang thiết bị quân sự gồm :
- Hơn 1 triệu viên đạn súng cá nhân.
- Hơn 1000 lựu đạn thỏi.
- 250 kg thuốc nổ TNT, cùng ngòi nổ.
- 2000 quả đạn súng cối.
- 500 lựu đạn chống chiến xa.
- 3600 súng trường và tiểu liên.
- 250 kg tiếp liệu y dược.
Nhản hiệu ghi trên súng đạn và y-cụ cho thấy xuất xứ từ Trung Cộng, Liên Sô, Bắc Hàn, Tiệp Khắc và Đông Đức..
Trong quân trang của các thủy thủ BV bị hạ còn có cả Báo Hải Phòng, đề ngày 23 tháng Giêng năm 1959, bản đồ hải hành BV, thư từ và địa chỉ liên lạc của các cán binh BV.. Trong nhật ký tịch thu từ xác sỉ quan BV bị hạ cũng có hình ảnh, giấy tờ, chứng minh thư ghi rõ cấp bực, đơn vị, thuộc SĐ 338 CSBV.
( Toán NN lặn xuống thám sát nơi tàu chìm sâu chừng 7-8 thước nước : Chiếc tàu bị chìm nghiêng theo triền vách đá của bờ, phía ngoài tàu có chữ Tàụ Khi lặn vào trong khoang tàu nơi phòng lái, từ chiếc la bàn, bản đồ hải trình, và chiếc đồng hồ trong Phòng lái đều là chữ Tàu..)
Chiếc tàu thuộc loại vỏ sắt dài 40m, đóng tại Trung Cộng, võ trang đại liên thuộc Đơn vị K35, nhóm vận tải đường biển 125 của HQ BV, xuất phát từ Hải Phòng, chãy dọc hải phận quốc tế để tránh sự kiểm soát của các chiến hạm VNCH, sau đó sẽ đâm thẳng vào địa điểm đổ hàng..Cũng theo nhật ký hải hành thì tàu này đã xâm nhập và chuyển hàng vào Nam Việt Nam được 22 chuyến, trong các lần trước, nếu đổ hàng không kịp, tàu sẽ trở ra hải phận quốc tế để đêm sau sẽ trở lại..Đây là chuyến thứ 23 của chiếc tàu.
Trong thời gian xẩy ra sự kiện Vũng Rô, Đại tướng Nguyễn Khánh (lúc đó đang là Tổng tư lệnh Quân đội) đã ghé thăm và quan sát tại chỗ nơi xẩy ra trận đánh cùng các võ khí tịch thu được..
Trần Lý
(bổ xung cho bài Trận Vũng Rô, trong Tổ Quốc Đại Dương 1999)
Ghi chú :
(1) Trong tập sách’ Can trường trong Chiến bại’, Phó Đề đốc Thoại có ghi là theo trí nhớ của Ông, thì Trung Úy James Bowers bay loại phi cơ có cánh của Lục quân HK tên là Otter, dùng để liên lạc và tải thương. Trên thực tế, loại phi cơ De Havilland Canada U-1A Otter là loại phi cơ vận tải nhẹ, cánh quạt, một máy chở được 9 hành khách..không dùng để tải thương.
U-1A Otter
(2) Cũng trong tập sách trên, phần viết về thăng thưởng chỉ nhắc đến các chiến công cùa Hải Quân, Lực lượng ĐB.. nhưng không đề cập đến vai trò..chính của KQ là đánh chìm chiếc tàu này..
ông nội tôi là Hoàng Xuân thu cũng có mặt tham gia chiến đấu trên con tàu không số 143 này.. nhưng hiện tại tôi không thể tìm ra tư liệu liên quan đên ông.. có thể cho tôi biết ..tìm danh sách và thông tin về những thủy thủ tàu không số này ở đâu ko ? tôi xin chân thành cảm ơn !
ReplyDeleteChào bạn Như Quỳnh, tôi cũng không biết phải tìm danh sách và những thông tin đó ở đâu. Nhưng tôi nghĩ có lẽ bạn bắt đầu bằng những người đã chiến đấu chung hay biết ông của bạn rồi phăng lần ra. Cũng có thể lấy tên những người đã ở trên tàu đó trong các bài báo tìm xem những người đó ở đâu. Nếu gặp được họ thì sẽ hỏi thêm nữa. Xin chúc bạn may mắn.
ReplyDeleteTrong một bài có nói xác xạ thủ súng phòng không VC bị xích chân vào súng. Đây là luận điệu tuyên truyền từ sự tưởng tượng bậy bạ nhất, thậm chí có những người bên phía VNCH viết rằng, lính VC và Bắc Việt trước khi xung trận được uống thuốc liều để không sợ chết. Thế kỷ 20 mà các vị ấy viết cứ như thời trung cổ. Nếu VC và Bắc Việt có cách hành xử như thế thì chẳng ai đi lính, nếu bị bắt đi thì họ trốn hoặc đầu hàng VNCH hết và VC cùng Bắc Việt sẽ bại trận. Thực tế không đời nào có chuyện bộ đội VC và Bắc Việt bị xích vào súng như thế.
ReplyDelete