Friday, January 13, 2012

Luật Đất Đai và cái thòng lọng tròng vào đầu dân

Bài viết Quả Bom Đoàn Văn Vươn của ông Huy Đức là một bài viết của một người khá am hiểu về chính sách đất đai của chế độ. Tác giả đã kể ra ngọn nguồn chính sách về đất đai từ thời sau 1954 cho đến thời đổi mới.

Trong bài tác giả cho biết Luật Đất Đài 1993 qui định đất đai thuộc về toàn dân và nhà nước có quyền ban phát và thu hồi đất đai. Luật Đất Đai 1993 công nhận năm quyền trong việc sử dụng đất: sử dụng, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê quyền sử dụng đất. Các quyền này giống như là các quyền của các chế độ công nhận cá nhân sở hữu đất đai nhưng tại Việt Nam chính sách đất đai của nhà nước gọi là xã hội chủ nghĩa lại có thêm quyền cho nhà nước là khoản 10, Điều 38 qui định: Nhà nước thu hồi những phần đất “không được gia hạn khi hết thời hạn”. Với điều này, người soạn luật dành cho nhà nước quyền tối hậu được quyền tịch thu đất đai của bất cứ ai. Chỉ cần không gia hạn khi hết thời hạn sử dụng là người sử dụng bị mất đất. Đó là cách nhà nước có thể áp dụng cho những kẻ không chịu nghe lời nhà nước. Lấy lại đất của những kẻ đó là đoạt đi miếng cơm manh áo của gia đình họ. 


Việc nhà nước phải cấp phát đất đai cho dân khai thác với thời gian dài là bước thụt lùi về chủ nghĩa xã hội so với chính sách bắt dân phải làm việc trong hợp tác xã hay nông trường. Người dân bị chính quyền dùng bạo lực cưỡng bách phải nộp đất cho hợp tác xã và phải làm việc theo giờ giấc của hợp tác xã, được chia cho hoa lợi theo tỉ lệ hợp tác xã qui định nên đã không hăng hái làm việc. Tại mọi nơi từ Liên Xô đến Trung Quốc, qua Việt Nam, người nông dân bị xóa bỏ tư hữu đã không làm việc hăng hái hơn như Karl Marx tiên liệu mà lại sinh ra thói làm việc lơ là, làm việc cho có lệ cho nhà nước, đồng thời giành thời gian đi buôn bán hay chăm lo cho miếng đất riêng của mình.

Tại Liên Xô, vào thập niên 1970, nhà nước cũng đã đi một bước thụt lùi về mặt xã hội chủ nghĩa bằng cách cho các hộ nông dân được một khoảnh đất nhỏ để canh tác và được hưởng hoa lợi trên miếng đất riêng đó. Kết quả là diện tích số đất cấp riêng cho nông dân chỉ chiếm 5% tổng số diện tích đất canh tác nhưng lại tạo ra 40% sản lượng nông nghiệp.

Đến năm 1979, tại Trung Quốc, khi Triệu Tử Dương làm Bí Thư Tỉnh Ủy tỉnh Tứ Xuyên, dưới thời Đặng Tiểu Bình cầm quyền, đã cho phép nông dân đem nông phẩm ra chợ bán theo giá của thị trường chứ không phải là bán cho nhà nước theo giá qui định của nhà nước. Việc này khiến cho nông dân hăng hái trồng trọt làm sản lượng nông nghiệp của tỉnh tăng vọt lên. Trước thời Đặng Tiểu Bình thì việc cho dân bán theo giá thị trường là một điều cấm kỵ đối với chế độ xã hội chủ nghĩa vì như vậy là dùng lòng tham lợi nhuận để thúc đẩy sản xuất, là đi ngược lại với chủ nghĩa Marx là phải diệt trừ tận gốc lòng tham lợi nhuận để diệt trừ tận gốc óc ham sở hữu và cũng là diệt trừ tận gốc chế độ tư bản. Nhưng lúc đó, Đặng Tiểu Bình đã đi một vòng Đông Nam Á, gặp Lý Quang Diệu và chứng kiến các nước Đông Nam Á đi theo con đường tư bản đều phát triển được đất nước phồn thịnh, nhà cửa, đường xá khang trang hơn Trung Quốc lúc đó. Đặng Tiểu Bình không còn xem chủ nghĩa tư bản là điều xấu xa nữa nên đã không trừng phạt Triệu Tử Dương về tội đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa mà còn khuyến khích và đem áp dụng cho toàn quốc.

Việc Việt Nam đem cấp phát đất cho dân để khai thác lâu dài là cách đánh vào lòng ham lợi nhuận của dân. Dân có được miếng đất riêng, được hưởng lợi nhiều nếu miếng đất đó sinh lợi nhiều, nếu lười biếng thì gia đình sẽ nghèo. Nhưng mặc dù cấp phát đất cho dân dùng lòng tham lợi nhuận để thúc đẩy sản xuất, đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn giành quyền tối hậu cho mình đó là quyền nắm toàn bộ đất đai của quốc gia. Chính quyền có quyền ban phát đất đai và thu hồi đất đai là chính quyền có quyền lực đối với người dân, bắt người dân phải phục tùng nếu không thì sẽ bị trừng phạt lấy đất đi, mất phương tiện sinh sống .

Ở các nước theo chính sách xã hội chủ nghĩa với mục đích đem lại công bằng xã hội thì nhà nước chỉ chăm lo cho dân được y tế miễn phí, được có các khoản trợ cấp về xã hội, ý tế và chỉ quốc hữu hóa những xí nghiệp hay ngành sản xuất nào mà thấy xét ra nếu để cho tư nhân nắm thì sẽ không có lợi chứ không dành nhà nước cái quyền được khống chế toàn dân như trường hợp ở Việt Nam và Trung Quốc.

Mà không chỉ ở lãnh vực đất đai mà tại nhiều lãnh vực, ngành nghề khác đảng Cộng Sản Việt Nam cũng vẫn có những qui định để giành cho đảng cái quyền khống chế người dân. Một số ngành người dân có thể làm tư nhưng người đó không có tư cách pháp nhân mà phải nằm trong một hội hay hợp tác xã. Mà nhà nước thì nắm quyền với các hội và hợp tác xã nên khi cá nhân có hành vi mà nhà nước không thích thì nhà nước có quyền cấm hành nghề, nghĩa là tước đi miếng cơm manh áo của người đó.

Chính sách xã hội chủ nghĩa tại các nước như Việt Nam và Trung Quốc khác với chính xã hội chủ nghĩa tại một số nước dân chủ. Vì đảng Cộng Sản nắm toàn quyền làm luật nên luật pháp được làm ra là để bảo vệ quyền lực của đảng Cộng Sản . Luật sư Lê Công Định rất hiểu rõ điều này nên đã mở đầu lời thú tội của mình trước tòa với câu: "Luật Pháp và Hiến Pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là để bảo vệ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam". Cái quyền nhà nước được ban phát và thu hồi đất đai là cái thòng lòng tròng lên đầu dân, là để bảo vệ quyền lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam theo đúng như lời luật sư Lê Công Định nói. Tại các nước dân chủ, trong quốc hội ngoài những dân biểu có khuynh hướng xã hội lại còn dân biểu của các đảng khác, những người độc lập nên luật lệ làm ra, dù là khi phe xã hội có đa số thì chỉ những điều luật thật sự đem lại lợi ích cho người lao động mới được thông qua còn những luật chỉ để bảo vệ lợi ích riêng của một đảng, để khống chế tự do của toàn dân thì bị phản đối.

Trong bài Quả Bom Đoàn Văn Vươn, tác giả Huy Đức cũng nêu tên chính ông Đỗ Mười, lúc đó làm Tổng Bí Thư đã không chấp nhận cho dân được sở hữu đất mà dành quyền kiểm soát đất đai cho nhà nước, tức là cho đảng Cộng Sản Việt Nam. Cũng chính ông Đỗ Mười là người đi vào Nam năm 1979 để chỉ huy chiến dịch tập thể hóa nông nghiệp, tịch thu ruộng đất của nông dân, bắt dân phải làm việc trong hợp tác xã. Ông Đỗ Mười đã ra chỉ thị cho cán bộ nông nghiệp tại miền Nam rằng vì ruộng đất tại miền Nam rất tốt nên phải thu thuế nông nghiệp đến 70% hoa lợi để cho người dân phải ra sức làm việc. Thâu đến 70% hoa lợi của người làm ruộng thì ở miền Nam dưới thời Pháp thuộc, chỉ có địa chủ rất ác mới thu lợi của tá điền đến mức này còn ngoài ra phần lớn địa chủ không đòi tá điền phải nộp hoa lợi nhiều như thế. Chỉ thị này cùng với việc ông Đỗ Mười nhất định không cho dân được sở hữu ruộng đất cho thấy ông Đỗ Mười là người rất am hiểu về việc dùng ruộng đất để khống chế nông dân, bóc lột sức lao động của nông dân. Nhưng đó không phải là chính sách xã hội chủ nghĩa đem lại lợi ích cho nông dân mà là nhân danh xã hội chủ nghĩa để khống chế nông dân, bóc lột nông dân.

Khi kể ra ngọn nguồn chính sách đất đai tác giả Huy Đức cũng vạch ra là đến Hiến Pháp 1980 mới qui định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Việc đảng Cộng Sản Việt Nam đợi đến sau 1975, khi hoàn toàn nắm quyền cai trị trên toàn thể đất nước mới tuyên bố đất đai là sở hữu của toàn dân, cùng là việc đổi tên nước từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cho thấy những người lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam lúc đó vẫn trung thành với sách lược của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, mặc dù lúc tổ chức Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản không còn nữa. Sách lược của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản là các đảng cộng sản tại các nước tiến hành cuộc cách mạng qua hai giai đoạn . Đầu tiên là giai đoạn Cách Mạng Dân Chủ Dân Tộc, rồi sau sẽ tiến hành Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa.

Trong giai đoạn Cách Mạng Dân Chủ Dân Tộc thì đảng Cộng Sản và làm mờ hình ảnh chủ nghĩa Cộng Sản và đem các chiêu bài thuộc chủ nghĩa dân tộc để lôi kéo toàn dân, lôi kéo cả những người không thích chủ nghĩa Cộng Sản mà có chủ ý đưa đất nước theo con đường phát triển khác. Cái chiêu bài không dính dáng đến chủ nghĩa Cộng Sản lúc đó là "Thống nhất đất nước" mà lờ đi phần thống nhất đất nước để rồi xóa bỏ quyền tư hữu, bắt ruộng đất là sở hữu của nhà nước.  Nhiều chiêu bài khác cũng được đảng Cộng Sản dùng như "Chống Mỹ xâm lược để cứu nước". Chiêu bài này lờ đi việc Mỹ giúp cho miền Nam là ngăn cản việc áp dụng chủ nghĩa Cộng Sản tại miền Nam, nghĩa là để duy trì nền kinh tế thị trường, duy trì việc nông dân sở hữu ruộng đất chứ không phải là đất đai là sở hữu của nhà nước mà tô vẽ hình ảnh Mỹ muốn xâm lược Việt Nam để chiếm lấy Việt Nam thành một phần đất thuộc Mỹ. Nhưng nếu đảng Cộng Sản tuyên bố rõ ràng ra rằng chống Mỹ để rồi đem đất đai thuộc về sở hữu nhà nước thì sẽ chẳng có mấy nông dân nào tại miền Nam hưởng ứng lời kêu gọi của đảng Cộng Sản ngoại trừ một số rất ít đã đọc và tin tưởng vào chủ nghĩa Cộng Sản. Cách dùng các chiêu bài này quả thật đã lôi kéo được nhiều người tuy không thích chủ nghĩa Cộng Sản nhưng đã đứng vào hàng ngũ các tổ chức do đảng Cộng Sản lập ra và đóng góp công sức và cả sinh mạng cho việc thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam.

Ở miền Bắc trước 1975, ngoài việc chưa tuyên bố đất đai thuộc về sở hữu toàn dân, đảng Cộng Sản Việt Nam còn duy trì hai đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội để làm ra vẻ chế độ miền Bắc là một chế độ đa đảng chứ không phải là chế độ độc đảng do đảng Cộng Sản độc quyền lãnh đạo. Chẳng những thế, tên đảng cũng không phải là đảng Cộng Sản mà là đảng Lao Động. Tất cả những việc này là để xóa mờ cái mục tiêu thật sự của đảng Cộng Sản Việt Nam là tiến đến việc thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản trên toàn cõi Việt Nam.

Chỉ đến khi sau khi đã chiếm được miền Nam thì đảng Cộng Sản Việt Nam mới cho là đã hoàn thành giai đoạn Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ, nay là lúc bước qua giai đoạn Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Cụ thể của việc làm đó là đổi tên nước thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đổi tên đảng Lao Động thành đảng Cộng Sản Việt Nam, giải tán hai đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội để chỉ còn đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng duy nhất được hoạt động, làm Hiến Pháp mới xóa bỏ quyền tư hữu ruộng đất, tuyên bố ruộng đất thuộc về sở hữu nhà nước.

Nhưng cuộc Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa này đã đem sự thất bại trong kinh tế khiến cho Việt Nam phải sống nhờ vào viện trợ của Liên Xô. Cuộc Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa cũng không đem lại kết quả tốt cho nền kinh tế Liên Xô nhưng Liên Xô vẫn tồn tại được là nhờ Liên Xô có nhiều dầu hỏa và quặng mỏ để xuất cảng. Khi Liên Xô gặp khó khăn vì giá dầu hỏa bị sụt trên thị trường quốc tế, bắt đầu cắt viện trợ cho Việt Nam, năm 1986, đảng Cộng Sản Việt Nam phải đi thụt lùi trong cuộc Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa, cấp phát đất cho nông dân làm ăn dài hạn, cho nông dân được hưởng hoa lợi trên miếng đất của mình nhưng đồng thời vẫn duy trì cái thòng lọng tròng vào đầu dân để duy trì quyền lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Đó là quyền được ban phát và thu hồi đất đai theo ý đảng Cộng Sản muốn.

Duy trì chính sách đất đai thuộc về sở hữu của toàn dân có làm cho xã hội công bình hơn, bớt chênh lệch hơn hay không? Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam, có những đảng viên có nhiều nhà, giàu có nhờ được khai thác, hưởng lợi từ những khu đất rộng mênh mông và có những người nghèo ngủ ngoài đường, những người phải làm lụng cực nhọc mà vẫn không đủ sống thì thấy sự chênh lệch lớn trong xã hội.

Nhưng vẫn có những lập luận cho rằng hễ sở hữu thuộc về nhà nước càng nhiều thì càng theo đúng chủ nghĩa xã hội, càng làm cho xã hội bình đẳng hơn. Trong thời gian người dân Lybia nổi lên chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa Hồi Giáo thì thấy xuất hiện những bài viết bênh vực cho chế độ Gaddafi, nói rằng dưới chế độ Gaddafi, nhà nước làm chủ nhiều đất đai hơn, có nghĩa là xã hội dưới thời Gaddafi ít chênh lệch giàu nghèo hơn dưới thời vua Idris trước đó. Thế nhưng người dân Lybia vẫn nổi lên lật đổ chính quyền.

Việc nhà nước nắm nhiều đất đai có làm cho xã hội bớt chênh lệch hay không là tùy theo cách sử dụng đất đai của nhà nước. Tại Lybia, tuy nhà nước làm chủ nhiều đất đai hơn nhưng chính quyền nằm trọn trong tay của ông Gaddafi thì có nghĩa là một mình Gaddafi có toàn quyền sử dụng các đất đai thuộc về nhà nước. Như thế về mặt quyền hành thì Gaddafi có quyền cũng chẳng khác gì vua Idris. Dưới thời vua Idris thì một số người dân còn có quyền tư hữu đất đai nhiều hơn thì tức là vua Idriss ít quyền lực hơn Gaddafi. Gaddafi có quyền lực nhiều hơn vua Idris vì vừa nắm chính quyền lại có quyền sử dụng một số lớn đất đai mà trước đó vua Idris không có.

Tương tự, Luật Đất Đai công nhận quyền người dân được khai thác, hưởng lợi từ miếng đất nhưng lại dành cho nhà nước quyền ban phát đất đai. Chính nhờ cái quyền được ban phát đất đai mà nhiều đảng viên lợi dụng chức quyền thao túng luật lệ để được có những khu đất tốt, đắt giá, được có nhiều nhà đất. Như thế việc đất đai là sở hữu của nhà nước đâu có làm cho xã hội bớt chênh lệch. Ở các nước khác, ông tổng thống muốn làm chủ miếng đất cũng phải mua bằng tiền của mình chứ đâu thể nói với thuộc hạ cấp cho mình những miếng đất mình thích.

Chỉ có ở các nước dân chủ, người dân có đại diện ở trong quốc hội, có những cơ chế độc lập với đảng phái kiểm soát việc sử dụng đất đai thì việc nhà nước sở hữu đất đai nhiều mới có khả năng làm bớt chênh lệch xã hội. Còn ở một nước mà chỉ có một nhóm người toàn quyền thao túng chính quyền thì việc đem toàn thể đất đai đặt dưới sự ban phát, thu hồi của một nhóm người không bớt đi sự chênh lệch xã hội mà còn làm cho xã hội bị chênh lệch thêm.

Quả Bom Đoàn Văn Vươn

by Osin HuyDuc on Tuesday, January 10, 2012 at 8:57am
Huy Đức


Khi lực lượng cưỡng chế huyện Tiên Lãng đến khu đầm, anh Vươn cho nổ trái mìn tự tạo cài dưới một bình gas. Bình gas không nổ. Nhưng, trái mìn tự tạo vẫn gây tiếng vang như một quả bom, “quả bom Đoàn Văn Vươn”. Vụ nổ không chỉ gây rúng động nhân tâm mà còn giúp nhìn thấy căn nguyên các xung đột về đất đai. Quyền sở hữu nói là của “toàn dân”, trên thực tế, rất dễ rơi vào tay đám “cường hào mới”.

Sự Tùy Tiện Của Nhà Nước Huyện

Quyết định giao bổ sung 19,5 ha đất nuôi trồng thủy sản cho ông Đoàn Văn Vươn, ký ngày 9-4-1997, ghi thời hạn sử dụng là 14 năm tính từ ngày 14-10-1993. Theo báo Thanh Niên, ở thời điểm ấy, chính quyền huyện Tiên Lãng đã quy định thời hạn giao đất cho nhiều cá nhân, hộ gia đình rất tùy tiện: có người được giao 4 năm; có người 10 năm... Tuy thời điểm này chưa có các nghị định hướng dẫn chi tiết việc thi hành, nhưng Luật Đất đai năm 1993 đã nói rõ thời hạn giao đất nuôi trồng thủy sản cho hộ gia đình và cá nhân là 20 năm.

Theo Nghị định ngày 28-08-1999, nếu chính quyền Tiên Lãng không tùy tiện thì gia đình ông Vươn có quyền sử dụng phần đất này cho đến ngày 9-4-2017, tính từ ngày ông được huyện ký giao; tối thiểu cũng phải đến ngày 15-10-2013, nếu huyện “ăn gian” tính theo ngày Luật Đất đai có hiệu lực. Vấn đề là, cho dù đất được giao của gia đình ông Vươn hết hạn thì có phải là đương nhiên bị thu hồi để giao cho người khác như cách mà Tiên Lãng đã làm. Luật Đất đai 2003 quy định hạn điền cho loại đất nuôi trồng thủy sản là 3 hecta và với phần đất vượt hạn mức của ông Vươn có thể áp dụng Điều 35 để cho ông tiếp tục thuê như quy định đối với đất đai nông nghiệp.

Sở Hữu Toàn Dân

Tuy dịch từ Hiến pháp 1936 của Liên xô, Hiến pháp 1959 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai”. Cho dù, từ thập niên 1960s ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970s ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức bị coi là thuộc “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980.

Theo Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc: “Trong bản dự thảo Hiến pháp 1980 do Chủ tịch Trường Chinh trình Bộ Chính trị vẫn đề nghị duy trì đa hình thức sở hữu, trên cơ sở khuyến khích 5 thành phần kinh tế. Theo tôi biết thì Bộ Nông nghiệp và Ban Nông nghiệp Trung ương cũng không đồng ý quốc hữu hóa”. Nhưng, ngày 10-9-1980, trong một bài nói chuyện trước Ban chấp hành Trung ương có tựa đề, “Hiến pháp mới, Hiến pháp của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa”, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Nhân đây, tôi nhấn mạnh một điểm rất quan trọng trong Dự thảo Hiến pháp mới là chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân. Đề ra như vậy hoàn toàn đúng với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Ông Nguyễn Đình Lộc, thành viên Ban thư ký của Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp 1980, thừa nhận: “Khi đó, uy tín Lê Duẩn bao trùm. Mặt khác, nhiều người cũng không hình dung được bản chất của sở hữu toàn dân là quốc hữu hóa”.

Tuy chấp nhận quốc hữu hóa đất đai nhưng theo ông Tôn Gia Huyên, lúc bấy giờ là Vụ phó vụ Quản lý Đất đai, ông Trường Chinh chủ trương giữ nguyên hiện trạng chứ không tịch thu ruộng đất như điều mà Lenin đã làm với kulax ở Nga sau năm 1917. Ông Trường Chinh yêu cầu ghi vào Điều 20 của Hiến pháp 1980: “Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật”.

Khi Hiến pháp 1992 bắt đầu được soạn thảo, theo ông Phan Văn Khải: “Thủ tướng Võ Văn Kiệt và tôi muốn sửa Hiến pháp theo hướng, trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân nhưng không thành công, chúng tôi đành phải tìm ra khái niệm, trao 5 quyền cho người sử dụng đất”. Trong Đại hội Đảng lần thứ VII, vòng I, nhiều nhà lãnh đạo địa phương đã lên tiếng ủng hộ “đa sở hữu hóa đất đai”. Nhưng, ở cấp cao, theo Trưởng ban Biên tập Hiến pháp 1992, ông Nguyễn Đình Lộc: “Không ai có đủ dũng cảm đứng lên đòi bỏ sở hữu toàn dân, vì đó là một vấn đề nhạy cảm, đụng đến chủ nghĩa xã hội. Khi chuẩn bị bài phát biểu về Hiến pháp cho Tổng Bí thư Đỗ Mười, tôi có trình bày, nhưng ông Đỗ Mười nghiêng về sở hữu toàn dân. Ông tin vào điều ông Lê Duẩn nói, sở hữu toàn dân là quan hệ sản xuất tiên tiến. Ông Đỗ Mười tin, trước sau gì ta cũng tới đó nên cứ để vậy”.

Các Nhà Làm Luật

Luật Đất đai 1993 đã trao cho người dân 5 quyền: sử dụng, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê quyền sử dụng đất. Nhưng, so với Hiến pháp 1992, Luật Đất đai 1993 có một điểm lùi. Hiến pháp ghi: “Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Trong khi Luật chỉ giao đất cho cá nhân và chỉ giao có thời hạn. Ông Tôn Gia Huyên giải thích: “Thời hạn giao đất thực chất chỉ là ý chí chính trị, là sợi chỉ cuối cùng để phân biệt giữa sở hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước”. Là ranh giới để trấn an những người vẫn còn tin, Việt Nam tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nhưng, cái ranh giới tưởng có giá trị trấn an ấy đã lại rất mù mờ, mù mờ ngay trong đầu chính các nhà lập pháp. Tháng 7-1993, sau bốn buổi thảo luận trên Hội trường về Luật Đất đai, các đại biểu miền Nam đề nghị “giao đất lâu dài” như Hiến pháp 1992, trong khi các đại biểu miền Bắc và miền Trung lại tán thành giao đất có thời hạn; thậm chí có đại biểu còn đòi rút ngắn thời hạn giao đất xuống còn từ 10-15 năm. Trong tính toán của nhiều người, giao đất có thời hạn nghĩa là sau đó Nhà nước có thể lấy lại để giao cho người khác. Đại biểu Đặng Quốc Tiến, Bắc Thái, nói: “Đất ít, người đông, giao có thời hạn thì sẽ bảo đảm cho công tác điều chỉnh đất đai khi có biến động nhân khẩu”. Ông Nguyễn Bá Thanh, khi ấy là Chủ tịch Thành phố Đà Nẵng, đã rất hăng: “Đi nghĩa vụ quân sự 2 năm thì kêu dài, giao đất 20 năm thì bảo ngắn”.

Khi Luật Đất đại 1993 được đưa ra sửa đổi, Chính phủ đề nghị nâng thời hạn giao đất nông nghiệp từ 20 năm lên 50 năm. Trong hai ngày 14 và 16-11-1998, nhiều đại biểu cũng đã phản ứng, thậm chí còn có phần gay gắt. Chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp Đại Thắng, Đại Lộc (Quảng Nam) ông Trần Văn Mai nói: “Số nông dân chưa có đất đang trông chờ cho hết thời điểm 20 năm, bây giờ đã được 5 năm, còn 15 năm nữa họ sẽ được chia đất. Nếu bây giờ ta tăng thời hạn lên 50 năm sẽ là một sự hụt hẫng lớn của nhân dân với Đảng”. Theo cách hiểu của ông Trần Văn Mai: “Hoặc hết hạn 20 năm, hoặc người sử dụng đất chết, chúng ta sẽ thu hồi cấp lại cho những nhân khẩu phát sinh”. Nhưng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, ông Nguyễn Đức Hoan đã phát biểu: “Đừng lo cho 20 năm sau không có đất để phân phối lại. Bây giờ ở ta 80% dân số làm nông nghiệp. Không lẽ 20 năm sau cũng 80%?”. Chủ tịch Hội nông dân tỉnh Đồng Tháp ông Trương Minh Thái cho rằng: “Đừng nghĩ chúng ta chỉ có thể điều phối ruộng đất ở nông thôn bằng cách thu hồi rồi chia lại. Chúng ta đã giao cho người dân năm quyền, họ có thể để thừa kế, hoặc sang nhượng cho người chưa có đất”.

Đất Dân Quyền Quan

Năm quyền của người sử dụng đất sau đó được “pháp điển hóa” trong Bộ Luật Dân sự 1995 như các quyền dân sự. Quyền sở hữu, tuy “trá hình” này, vẫn là cơ sở pháp lý để hình thành thị trường địa ốc. Và trong giai đoạn đầu, nhờ tư vấn của World Bank, thị trường đã được điều hành bằng công cụ thuế. Cho dù do thuế suất quá cao, Luật Thuế Chuyển quyền sử dụng đất, ngay lúc ấy, đã khiến nhà đất đóng băng nhưng sử dụng công cụ thuế chính là thừa nhận giá trị các giao dịch dân sự liên quan tới đất đai. Tuy nhiên, chính quyền các cấp có vẻ như không mấy mặn mà với vai trò đứng ngoài. Các giao dịch, đặc biệt là mua bán đất đai đã bị hành chánh hóa: Nhà nước thu hồi đất của người bán rồi giao đất cho người mua. Thay vì thu thuế chuyển quyền, người mua phải đóng tiền sử dụng đất, đặt người có đất trong tình thế phải trả tiền hai lần.

Đỉnh cao của sai lầm về chính sách là Pháp lệnh 14-10-1994 và Nghị định 18, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh đó. Theo Nghị định 18, các tổ chức không còn được giao đất có đủ các quyền như Hiến pháp 1992. Những doanh nhân tiên phong như Tăng Minh Phụng, Liên Khui Thìn, Trần Quang Vinh… đã vay hàng ngàn tỷ đồng để mua đất, sau Nghị định 18 phải chuyển những lô đất ấy thành đất thuê và chỉ được thế chấp ngân hàng theo giá trị số tiền thuê đã trả cho nhà nước. Khi bị bắt, cũng nhân danh “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, Hội đồng thẩm định do Nhà nước lập ra đã tính, có những mét vuông đất, giá không bằng que kem. Đất biệt thự đường Trần Phú, Vũng Tàu, mà chỉ được Tòa công nhận giá ba-trăm-đồng/m2. Khoản chênh lệch giữa giá thực mua và giá của Tòa được coi là thất thoát để buộc tội các doanh nhân này lừa đảo.

Trong tù, có lúc Minh Phụng nói với Luật sư Nguyễn Minh Tâm: “Xin luật sư hãy nhìn vào mắt em để xem em có phải là người lừa đảo?”. Ngày 12-7-1999, khi nghe Luật sư Tâm nhắc lại câu này Minh Phụng đã bật khóc trước Tòa. Cũng đầu tư vào đất đai cùng một phương thức tuy khác quy mô, nhưng, thái độ của Nhà nước với giá đất đã biến ông Lê Văn Kiểm, Huy Hoàng, thành anh hùng và tử hình ông Tăng Minh Phụng.

Danh Chính Ngôn Thuận

Đầu tháng 12-2011, Chính quyền Đà Nẵng nơi ông Nguyễn Bá Thanh là Bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân đã đề nghị cho tư nhân sở hữu đất đai. Sau 20 năm lãnh đạo một địa phương, có lẽ ông Nguyễn Bá Thanh nhìn thấy, quyền sở hữu trá hình đã đặt đất đai của người dân vào tay chính quyền cấp huyện với quá nhiều rủi ro. Điều 38, Luật Đất đai 2003, nói: Nhà nước chỉ thu hồi đất khi “cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế” (khoản 7). Nhưng, tại khoản 10 cũng của Điều 38, Luật lại mở ra khả năng: Nhà nước thu hồi những phần đất “không được gia hạn khi hết thời hạn”. Chính quyền cấp huyện được Luật giao quyền giao đất và thu hồi đất của cá nhân và hộ gia đình. Nếu chính quyền Tiên Lãng áp dụng điều 67, tiếp tục giao đất cho ông Vươn, thì đã không có gì xảy ra, nhưng họ đã đẩy ông vào khoản 10, Điều 38: Thu hồi đất vì “không được gia hạn” khi thời hạn giao đất của ông đã hết.

Sau “trái bom Đoàn Văn Vươn”, chúng ta biết, khu đất đầm mà anh có không phải là đất được nhà nước giao mà là đất do gia đình anh phải lấn biển, khai hoang. Suốt 5 năm “trầm mình dưới nước từ mờ sáng tới tận tối khuya”, biết bao lần bị bão biển cuốn phăng để đắp được một bờ kè dài hai cây số, tạo nên bãi bồi màu mỡ và một khu đầm nuôi tôm cá rộng gần 40 hecta. Cũng nơi đây, anh Vươn mất một đứa con gái 8 tuổi vì khi cha mẹ mải làm con gái của anh đã rơi xuống cống. Đừng nói chuyện thu hồi, lẽ ra chính quyền Tiên Lãng phải xấu hổ khi ký quyết định giao cho anh Vươn phần đất của chính anh, phần đất mà anh Vươn đã phải gắn bó suốt 20 năm, đã đổ cả mồ hôi và máu.

Nếu như, quyền sở hữu về đất đai của người dân được công nhận, thì cách khai hoang, lấn biển của gia đình anh Vươn phải được coi như một hình thức thụ đắc ruộng đất mà từ xa xưa cha ông ta đã áp dụng cho người dân để ngày nay Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến Mũi Cà Mau. Nếu như quyền sở hữu về đất đai của người dân được công nhận, Chính quyền không thể hành chính hóa các giao dịch dân sự liên quan đến đất đai. Các đại gia không thể thậm thụt với đám cường hào thu hồi những mảnh đất của dân mà họ mua không được.

Nhưng đó là câu chuyện có thể được thảo luận trong quá trình sửa đổi Hiến pháp. Người dân đang dõi theo thái độ của Chính phủ, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước trường hợp Đoàn Văn Vươn.

Theo cách giải thích của Giám đốc Công an Hải Phòng Đỗ Hữu Ca thì đất ông Vươn nằm trong vùng quy hoạch xây dựng một sân bay quốc tế. Nếu thu hồi bây giờ hoặc chuyển thành thuê thì mai này nhà nước không phải bồi thường cho ông Vươn. Đỗ Hữu Ca nói: “Với công trình đặc biệt quan trọng như thế thì đền bù sẽ rất lớn. Ông Vươn cố giữ lại như thế để lấy đền bù khi dự án được triển khai”. Có thể Đỗ Hữu Ca là một công chức mẫn cán chứ không phải là “cụ Bá”. Nhưng, lo quyền lợi của nhà nước sao không tính quyền lợi của dân, không tính máu và mồ hôi 20 năm của gia đình anh Vươn. Chắc Đỗ Hữu Ca không nghĩ, anh em, bà con ông và chỉ vài năm nữa chính ông cũng là dân.

Đỗ Hữu Ca có lẽ không nhớ chuyện anh rể của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sáng 17-4-2009, bị “áp giải ra khỏi hiện trường” khi chính quyền huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương tiến hành cưỡng chế thu hồi hơn 185 hecta cao su của ông để làm khu công nghiệp. Ông đã không đồng ý cho giải tỏa, mặc dù, 185 hecta cao su này ông có được nhàn hạ hơn so với công sức khai hoang, lấn sóng của anh Vươn và mức đền bù thì cao hơn gấp 20 lần giá vốn. Nhắc lại câu chuyện này để thấy, bất luận là ai, khi phải đối diện với tấc đất của mình thì mới thấy của đau, con xót.

Dù sao thì hành động chống người thi hành công vụ của anh Đoàn Văn Vươn cũng phải được đưa ra xét xử. Nhưng, thông điệp mà các địa phương chờ đợi không phải là những năm tù cho anh mà là thái độ của nhà nước với chính quyền Tiên Lãng. Từ năm 2013, ruộng đất của nông dân bắt đầu lần lượt hết hạn giao đất. Nếu như quyết định của Chủ tịch Tiên Lãng Lê Văn Hiền không bị coi là sai, hơn 500 chủ tịch huyện trên cả nước có thể noi gương thu hồi đất đáo hạn của nông dân để… giao, thì không biết điều gì sẽ xảy ra. Đừng chậm trễ và đừng để “quả bom Đoàn Văn Vươn” lại nổ.

by Osin HuyDuc on Tuesday, January 10, 2012 at 8:57am
Huy Đức

1 comment:

  1. Kính anh Minh Đức,
    Loay hoay mãi, không cách nào trả lời trong trang nhà Danchimviet được, thôi thì hồi âm anh bằng cách này vậy. Anh cho phép tôi gọi như thế. Qua cách trình bầy tôi đoán người viết thuộc phái Nam. Nếu không đúng mong anh thứ lỗi..
    Rất thích thú và cảm ơn anh cho những nhận định. Vâng! Anh nhận xét rất tinh tế. Qủa thực dữ kiện về kinh tế của Lybia không được trình bầy trong bài viết. Một số lý do:
    1/-Lybia hướng về phương Tây sau khi Mỹ tấn công vào Irak năm 2003. Trước đó dữ kiện thống kê của Lybia rất ít (vì không có hay không được công bố?). Vì thiếu dữ kiện nên khó so sánh cùng phương pháp như Tunisia và Ai Cập.
    2/-Tác động nổi dậy và tình hình tại mỗi quốc gia có những điểm giống và khác nhau. Những điểm giống nhau đã trình bầy trong bài viết. Điểm khác biệt, nội dung chính anh đã đưa ra đó là: trong các quốc gia Bắc Phi, Lybia là có thu nhập bình quân mỗi đầu người cao nhất và hệ thống giáo dục, y tế khá nhất. Tuy nhiên ngoài sự bộc phát dân số và tỷ lệ giới trẻ thất nghiệp cao, còn vài nguyên nhân khác thuộc về địa phương, cấu trúc xã hội và quan điểm tôn giáo.
    Sự khác biệt giữa Benghazi thành phố lớn thứ nhì nằm ở cực đông và thủ đô Tripoli nằm ở miền tây rất lớn. Dân Benghazi sống theo truyền thống Hồi giáo và có khuynh hướng đối chọi với dân Tripoli (cởi mở và theo thời đại hơn). Họ càng không ưa cách sống cuồng loạn của gia đình Gaddafi. Trong qúa khứ họ đã từng vùng dậy và bị đàn áp đẫm máu. Benghazi nằm trong khu vực sản xuất dầu hỏa quan trọng. Sự phân chia thu nhập có được từ bán dầu không đồng đều. Xã hội Lybia được hình thành bởi nhiều bộ lạc và sắc dân khác nhau. Càng về sau Gaddafi càng ưu đãi bộ lạc của mình hơn những bộ lạc khác. Sự ác cảm sẵn có, cộng với mối thù của qúa khứ và bất công trong hiện tại là những tác động đưa đến sự nổi dậy.

    Tương tự như vậy tình hình và nguyên nhân nổi dậy ở Jordan, Oman, Syria và Yemen ngoài những điểm giống, có rất nhiều điểm khác biệt về căn bản. Ví dụ ở Jordan và Oman họ không chống ông vua mà chống chính quyền tham nhũng. Khi vua cho nội các về vườn, thành lập nội các mới và có biện pháp thay đổi để dân chủ hơn thì sự chống đối không còn nữa.
    Vài điều xin được đóng góp cùng anh Minh Đức. Trao đổi nhận định về chính trị trong tinh thần học hỏi và chia sẻ là một việc rất hay để tiến tới ý thức dân chủ.
    Đã vào coi và đọc vài bài trong blog của anh, hay lắm! Mong sao có nhiều blogs như thế xuất hiện.
    Đa tạ,
    nguyễn điền lăng
    nghialinh126@yahoo.com

    ReplyDelete