Đến năm 2020 Mỹ sẽ trở thành nguồn sản xuất dầu hỏa số 1 thế giới. Trung Quốc theo chân Hoa Kỳ khai thác dầu và khí đá phiến. Địa lý chiến lược thế giới sẽ thay đổi khi Mỹ không còn lệ thuộc vào dầu hỏa của các nước vùng Vịnh và không cần bảo đảm an ninh cho các tuyến trung chuyển năng lượng của thế giới về Hoa Kỳ.
Là một trong những quốc gia tiêu thụ dầu hỏa và khí đốt hàng đầu của thế giới, để đáp ứng nhu cầu nội địa Hoa Kỳ nhập khẩu đến 20 % năng lượng. Nhưng từ nhiều thập niên qua, cường quốc kinh tế và công nghiệp số 1 này đã âm thầm tiến hành một cuộc cách mạng.
Đầu tháng 11/2012 báo cáo thường niên của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (AIE) đã gây bất ngờ khi dự phóng là vào năm 2017 nước Mỹ sẽ trở thành nguồn sản xuất dầu hỏa lớn nhất thế giới, đứng trước cả Ả Rập Xê Út và chỉ một thập niên sau thì Hoa Kỳ sẽ trở thành quốc gia xuất khẩu số 1 toàn cầu. Đối với khí đốt, chỉ trong hai năm nữa thôi sản lượng của Mỹ sẽ vượt quá mức cung cấp của Nga.
Cuộc cách mạng năng lượng
Thành quả này có được nhờ vào chiến lược mà các chính quyền Washington liên tiếp và các đại gia dầu khí của Hoa Kỳ đã kiên trì theo đuổi trong nhiều thập niên : đó là dựa và công nghệ phát triển khí và dầu từ đá phiến. Trong 11 tháng đầu năm 2012 Hoa Kỳ sản xuất khoảng 6,2 triệu thùng dầu mỗi ngày nhờ vào công nghệ khai thác đá phiến. Đây là một mức nhảy vọt đến 28 % so với khả năng cung cấp của năm 2008.
AIE khẳng định : « Với đà này, nhập khẩu dầu thô vào Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng giảm sút vào khoảng năm 2030 » và kịch bản một nước Mỹ tự lực về năng lượng không còn là điều viển vông. Đương nhiên, trật tự năng lượng quốc tế sẽ bị đảo lộn khi Hoa Kỳ không còn lệ thuộc vào dầu khí của thế giới. Châu Á sẽ trở thành trọng tâm của bản đồ thương mại dầu hỏa trong tương lai với những thay đổi quan trọng về mặt chiến lược.
Trả lời trên đài RFI Pháp ngữ, giáo sư địa lý bà Françoise Ardillier-Carras tác giả cuốn « Hydrocarbures et conflits dans le monde - dầu khí và các vụ xung đột trên thế giới », Nhà xuất bản Technip cùng giáo sư Samuele Furfari giảng dậy tại Đại học Tự do Bruxelles lần lượt phân tích về những tác động đối với ngành công nghiệp dầu khí với cuộc cách mạng về năng lượng đang hình thành.
Theo giáo sư Samuele Furfari đá phiến là vũ khí năng lượng mới của Hoa Kỳ nhưng ông thận trọng cho rằng dù có trở thành một nguồn cung cấp dầu khí hàng đầu thế giới, Mỹ ít có khả năng cung cấp dầu khí của mình cho phần còn lại của thế giới để bảo toàn vị thế siêu cường công nghiệp và kinh tế của mình :
« Mọi người ý thức được là giá năng lượng tăng nhanh và đã tác động đến các hoạt động kinh tế của toàn cầu. Giá năng lượng tăng mạnh từ 2004 và vấn đề năng lượng bị coi là một trong những yếu tố dẫn tới khủng hoảng kinh tế ngày nay. Từ đó các nhà lãnh đạo và các tập đoàn phải tìm ra những giải pháp.
2004 được coi là một bước ngoặt quan trọng đối với ngành năng lượng. Khác với các lĩnh vực kinh tế khác, để chuyển hướng, ngành công nghiệp năng lượng cần nhiều năm để thay đổi chiến lược. Trong trường hợp của Hoa Kỳ : nước Mỹ đang lệ thuộc vào dầu hỏa vào năng lượng của thế giới, nhưng trong một tương lai không xa cường quốc kinh tế số 1 này sẽ ‘độc lập’ về mặt năng lượng.
Công nghệ là chìa khóa giúp cho Hoa Kỳ đảo ngược tình huống trên bàn cờ năng lượng. Hoa Kỳ làm thay đổi cục diện ngành năng lượng thế giới với kỹ thuật khai thác khí đã phiến. Phải mất nhiều năm các chuyên gia mới biết khai thác khí đá phiến.
Đến khoảng 2008 ngành năng lượng đã trải qua một cuộc cách mạng : kỹ thuật khai thác khí đã phiến sẽ đẩy giá thành xuống thấp đến một mức độ mà ở Mỹ, người ta sẽ chỉ tập trung khai thác những vùng vừa có dầu hỏa vừa có khí đốt. Hoa Kỳ sẽ trong thế dư thừa dầu khí. Tôi không nghĩ là Mỹ sẽ trở thành một nguồn cung cấp dầu khí cho thế giới. Nhưng Hoa Kỳ, Canada và Mêhicô sẽ tự túc được về mặt năng lượng và điều đó sẽ làm đảo lộn trật tự năng lượng của thể giới »
Nhưng nói như vậy phải chăng quốc tế không còn lo sợ trước kịch bản khan hiếm vàng đen ? Giáo sư Furfari cho rằng đại đa số trong chúng ta vẫn bị ám ảnh trước mối đe dọa các nguồn dầu hỏa của thế giới bị cạn kiệt :
« Có thể nói như vậy nhưng đại đa số chúng ta và nhất là các phương tiện truyền thông vẫn cho rằng dầu hỏa đang ngày càng khan hiến. Từ năm 1924 người ta đã nói đế đe dọa thiếu hụt dầu hỏa. Người ta quên mất một điều : giá dầu hỏa tùy thuộc vào các kỹ thuật khai thác và tùy thuộc vào giá mà người tiêu thụ sẵn sàng trả để đổi lấy vàng đen.
Ở đây tôi cũng muốn nhắc lại với thính giả một điều quan trọng đó là vào năm 1982 quốc tế đã thông qua Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển. Văn bản này chính thức có hiệu lực từ năm 1994. Diện tích khai thác của mỗi quốc gia được mở rộng thêm.
Bên cạnh đó công nghệ khai thác tài nguyên ngày càng tối tân, thành thử khối lượng dầu cung cấp cho nhân loại ngày càng lớn. Tôi đơn cử trường hợp của Israel : với Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển, Israel làm chủ một kho dự trữ khí đốt có thể bảo đảm nhu cầu của quốc gia này trong vòng 120 năm » !
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
Bà Françoise Ardillier-Carras chuyên gia về địa lý gắn liền vấn đề năng lượng và địa lý chiến lược. Bà đặc biệt lưu ý đến những ý đồ của Trung Quốc tại Biển Đông :
« Với Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển, chiến lược năng lượng chuyển hướng và trở thành một vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia. Chính vì thế Biển Đông đang trở thành một khu vực vô cùng nhạy cảm. Tương tự như vậy, các vùng eo biển tức là các cửa ngõ trung chuyển dầu khí cũng trở thành những điểm nóng. Tranh chấp chủ quyền trên biển, một là để khẳng định quyền sở hữu các nguồn tài nguyên, và hai là để kiểm soát các chặng trung chuyển năng lượng … »
Vậy thì đâu là chiến lược năng lượng của Trung Quốc ? Giáo sư Samuele Furfari không ngần ngại cho rằng Trung Quốc sẽ đẩy mạnh công nghệ khai thác khí đá phiến tương tự như Hoa Kỳ. Duy Trung Quốc sẽ vấp phải một trở ngại : các mỏ đá phiến dầu của Trung Quốc thường nằm sâu trong lòng đất do vậy các cơ sở khai thác của quốc gia này phức tạp hơn so với tại Mỹ :
« Trung Quốc ngày càng tiêu thụ nhiều năng lượng của thế giới để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Hàng sản xuất đó thực ra cũng chỉ là để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ chung của toàn cầu- trong đó có cả Mỹ và châu Âu. Từ nhiều năm qua, chính sách ngoại giao của Trung Quốc chủ yếu nhằm hướng tới các nguồn dự trữ năng lượng của thế giới. Bắc Kinh đã đặc biệt chú ý tới châu Phi.
Giờ đây với công nghệ khai thác khí đá phiến, Trung Quốc cũng bắt đầu tham gia vào các chương trình này. Có khả năng một khi thành công trong việc khai thác khí đã phiến thì Bắc Kinh sẽ quan tâm ít hơn đến các nước sản xuất dầu hỏa như Tchad hay Soudan. Nhưng phải nói là Trung Quốc đang chạy đua để tìm kiếm dầu hỏa và khí đốt ».
Trong cuộc chạy đua tìm kiếm năng lượng đó tới nay Trung Quốc đã mở rộng tầm ảnh hưởng của mình với các nước sản xuất dầu hỏa từ Nam Mỹ đến Châu Phi, và đương nhiên là ở cả Trung Á. Giáo sư Françoise Ardillier-Carras cho biết :
« Đương nhiên tất cả hãy còn mới lạ đối với Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc phải trực diện với nhu cầu năng lượng lớn như hiện nay. Cũng chưa bao giờ Trung Quốc lại có nhiều xe hơi như những năm gần đây. Trung Quốc sản xuất than đá nhưng bên cạnh đó quốc gia này cần dầu khí của nước ngoài.
Để chen chân vào được một số khu vực sản xuất dầu khí, đặc biệt là đối với các nước Trung Á (Ouzbekistan, Turkmenistan, Kazackhstan …) , chính quyền Bắc Kinh đã phải đề ra hẳn một chiến lược. Chẳng hạn như là Trung Quốc đã phải tăng cường an ninh tại các khu vực biên giới để bảo đảm là hàng bán được trao đến tay người tiêu thụ một cách an toàn.
Vào khoảng năm 1998 Trung Quốc chi ra khoảng 1 tỷ đô la để mua dầu khí của các nước Trung Á. Đến năm 2010 tổng kim ngạch nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc chỉ riêng với khu vực này lên tới 24 tỷ đô la. Hiện tượng Trung Quốc bị khát dầu hỏa và mở rộng ảnh hưởng với các nước Trung Á đôi khi đặt Bắc Kinh trong thế khó xử đối với Matxcơva bởi đấy là những quốc gia chư hầu của Liên Xô cũ ».
Nghịch lý của Châu Âu
Châu Âu lệ thuộc 53 % vào năng lượng ngoài khu vực cho nên từ đầu những năm 1970 châu lục này đã phát triển năng lượng điện hạt nhân để khắc phục nhược điểm này. Riêng đối với công nghệ khai thác khí đá phiến, Châu Âu đã bỏ lỡ một chuyến tàu và bị coi là chậm chân hơn so với Hoa Kỳ. Một phần lớn sự chậm trễ đó là do châu Âu phải đối phó với các hội đoàn bảo vệ môi trường.
Tại sao Mỹ khai thác được khí đá phiến mà châu Âu không làm được ? Giáo sư Samuele Furfari giải thích về khác biệt cơ bản giữa Hoa Kỳ và châu Âu :
« Ở Hoa Kỳ, chủ sở hữu đất làm chủ luôn cả phần ngầm. Nếu có dầu hỏa hay khí đốt, quặng mỏ … thì họ có quyền khai thác các tài nguyên đó. Tại Châu Âu, chúng ta không thể làm như vậy. Cái gì cũng phải qua cơ quan hành chính của nhà nước và phải giải trình với các nhóm bảo vệ môi trường có thế lực. Tuy vậy luật lệ của Mỹ cũng rất rõ ràng thành thử để khai thác dầu hỏa hay khí đốt tư nhân không thể gây ô nhiễm bừa bãi.
Tôi nghĩ là trong tương lai Trung Quốc cũng sẽ theo chân Hoa Kỳ để khai thác khí đã phiến, vì tại đây, tất cả thuộc sở hữu của Nhà nước, chính quyền quyết định tất cả cho nên một quyết định khai thác loại năng lượng này, Trung Quốc sẽ không gặp phải một trở ngại nào hết.
Châu Âu không thể làm như Trung Quốc. Một khi Mỹ không còn lệ thuộc vào năng lượng quốc tế, Washington sẽ xét lại chính sách chiến lược của mình đối với phần còn lại của thế giới. Thêm vào đó là khí đốt sản xuất tại Mỹ sẽ rẻ vô cùng. Điều đó sẽ mở đường cho ngành công nghiệp xe hơi Mỹ chuyển hướng, chuyển từ xăng, dầu sang khí đốt. Khi đó, giá dầu thô trên thị trường quốc tế sẽ giảm mạnh, các loại năng lượng tái tạo như năng lượng gió hay mặt trời sẽ trở nên vô cùng đắt đỏ. Cả một mảng của ngành công nghiệp năng lượng sẽ sụp đổ.
Hiện nay khí đốt ở Mỹ rẻ đến nỗi Hoa Kỳ không còn sử dụng than đá và họ xuất khẩu than đã qua châu Âu. Hậu quả trực tiếp là Mỹ giảm lượng thái khí CO2 làm hâm nóng trái đất. Trong khi đó thì châu Âu ngày càng sử dụng nhiều than đá của Mỹ và qua đó làm tiêu tan những nỗ lực giảm khí carbon ».
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu hỏa, OPEP cho rằng giá 1 thùng dàu 80 đô la là hợp lý. Nhưng với công nghệ khai thác dầu và khí đá phiến, nhiều chuyên gia chờ đợi trong tương lai gần, giá dầu hỏa sẽ giảm mạnh. Hậu quả đối với các quốc gia sản xuất và xuất khẩu dầu hỏa ?
Giáo sư Samuele Furfari trả lời : « Vấn đề sẽ không đặt ra đối với các nước vùng Vịnh, do họ có một nguồn dự trữ rất lớn và dù giá dầu hỏa có thấp đến mấy, thu nhập của các quốc gia này vẫn được bảo đảm. Đối với các thành viên khác của OPEC thì khác khi đấy là những nước không có nguồn dự trữ dầu hỏa hùng hậu như các quốc gia vùng Vịnh.
Cách nay 11 năm giá dầu trên thế giới là 9,80 đô la một thùng. Nhưng trong một thập niên, giá dầu hỏa đã tăng từ 9,80 đô la lên thành 110 đô/thùng. Giá dầu tăng cao như vậy đã đè nặng lên kinh tế toàn cầu, gây trở ngại cho tăng trưởng »
Từ năng lượng đến địa lý chiến lược
Cân bằng về địa lý chiến lược thế giới sẽ thay đổi ra sao khi Hoa Kỳ không còn phải triển khai các phương tiện quân sự để bảo đảm an ninh cho các nguồn cung cấp dầu hỏa và khí đốt ? Françoise Ardillier-Carras cho rằng an ninh của một số các nước xuất khẩu dầu hỏa trên thế giới hiện nay có nguy cơ bị đe dọa khi Mỹ rút bớt các lực lượng an ninh :
« Nhu cầu về năng lượng thế giới, từ nay đến năm 2035 tăng thêm 36 %. Trong đó khí đốt sẽ tăng 46 %. Mỹ ngày nay đang trở thành một nhà sản xuất khí đốt hàng đầu của thế giới, điều sẽ làm thay đổi tương quan giữa Washington với nhiều các quốc gia, đặc biệt là các nước đang trỗi dậy. Đừng quên rằng hiện nay các nền kinh tế đang vươn lên hút nhiều năng lượng của thế giới hơn cả.
Tôi cũng xin lưu ý là khi không còn phải ráo riết tìm kiếm dầu khí của thế giới Hoa Kỳ sẽ xét lại chính sách an ninh và chiến lược của mình. Mỹ sẽ không còn gắn bó với một số các đồng minh thân cận ở vùng Trung Cận Đông, ở khu vực vùng Vịnh chẳng hạn. Hiện diện quân sự của Hoa Kỳ trong vùng sẽ không còn hùng hậu như hiện nay. Câu hỏi đặt ra là liệu các bên liên quan có đủ phương tiện tự vệ hay không » ?
Đương nhiên là Hoa Kỳ sẽ ít quan tâm hơn đến vùng Trung Cận Đông. Ông Furfari, thuộc đại học Bruxelles hoàn toàn đồng ý về điểm này, nhưng ông coi là còn quá sớm để có thể nói rằng dầu hỏa đã thuộc vào quá khứ : « Như vừa trình bày, có nhiều khả năng kịch bản đó sẽ xảy tới. Mỹ cũng đã chuyển mối quan tâm từ Đại Tây dương sang Thái Bình Dương. Hoa Kỳ không còn chú ý đến châu Âu như trước nữa. Canada cũng đang theo chân Hoa Kỳ trong lĩnh vực này và ngày càng chú trọng đến đối tác Trung Quốc.
Tôi muốn nói đến dự án dây dựng đường ống dẫn dầu nối liền bang Alberta của Canada với Trung Quốc. Trong khi đó châu Âu lại cho rằng sẽ không còn cần đến dầu hỏa trong tương lai. Tôi nghĩ rằng, hiện tại, chưa có một giải pháp thực tế nào cho phép chúng ta nghĩ tới điều đó. 95 % nhu cầu năng lượng của ngành giao thông vẫn lệ thuộc vào dầu hỏa ».
By Thanh Hà
Đăng ngày 2013-01-15 04:00
Tue, 2013-01-15 02:00
Nguồn: RFI: http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20130115-khi-hoa-ky-tu-luc-ve-nang-luong
Mỹ có khả năng sẽ ngừng nhập khẩu dầu vào năm 2027 do nguồn cung cấp dầu thô trong nước khá phong phú.
Theo tờ RT đưa tin, nếu bao gồm cả khu vực dầu Bakken ở Bắc Dakota và khu mỏ mới hình thành Eagle Ford ở Texas, Mỹ có thể đủ khả năng thúc đẩy sản xuất để tiêu thụ trong nước. Thông tin được chính phủ Mỹ công bố.
Chi nhánh của Bộ Năng lượng Mỹ chuyên thu thập và phân tích dữ liệu – Cục Quản lý Thông tin năng lượng (EIA) nói rằng trong vòng 23 năm tới, nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể tự túc về năng lượng. Trong khi đó, nhu cầu dầu thô dự kiến sẽ trở nên khiêm tốn hơn.
“Đây là lần đầu tiên triển vọng năng lượng hàng năm dự đoán được thị phần nhập khẩu nhiên liệu tiêu thụ chất lỏng có thể bằng không”, tờ Bloomberg trích dẫn lời của Phát ngôn viên John Krohn của EIA cho biết.
Đánh giá lạc quan nhất của EIA cho rằng mức sản xuất sẽ tăng lên khoảng 13 triệu thùng mỗi ngày trong hai thập kỷ tiếp theo. Dự đoán này được dựa trên những giả định thuận lợi hơn liên quan đến việc cải tiến công nghệ và năng suất của các giếng dầu.
Nhập khẩu ròng dầu thô của Mỹ đã giảm xuống còn khoảng 5 triệu thùng một ngày từ mức đỉnh điểm gần 13 triệu thùng trong năm 2006. Sự thay đổi chủ yếu là do những tiến bộ trong kỹ thuật như thủy lực bẻ gãy và khoan ngang vào đá phiến đá.
EIA cũng tính toán một kịch bản về nguồn lực hạn chế. Theo ước tính, sau khi tăng trưởng trung bình lên đến 9,1 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2017, khả năng sản xuất dầu có thể giảm mạnh còn 6,6 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2040. Trong trường hợp xấu nhất, EIA vẫn đánh giá thị phần nhập khẩu ròng xăng dầu và các chất lỏng khác có thể giảm đến 25% vào năm 2016 và sau đó lại tăng lên đến 32% trong năm 2040.
Tuy nhiên , các chuyên gia nói rằng ước tính sản lượng dầu, đặc biệt là cho đến năm 2040 của mỗi doanh nghiệp rất phức tạp bởi các yếu tố biến đổi khó lường. Các nhà dự báo phải thực hiện một số câu trả lời , bao gồm kích thước của trữ lượng dầu nằm dưới lòng đất hàng ngàn mét, làm thế nào để nhanh chóng đạt được tiến bộ công nghệ, và liệu tăng giá dầu có làm cho nguồn tài nguyên trở đang quá tốn kém trong sản xuất đột nhiên có hiệu quả cao về kinh tế.
"Mười năm trước chúng tôi đã nhập khẩu khí đốt tự nhiên, và bây giờ chúng tôi đang tìm cách xuất khẩu. Đã có nhiều thay đổi trong vài năm qua, nó thực sự ấn tượng và không có cách nào có thể dự đoán được chính xác về thời gian vài năm tới”, Bloomberg trích lời ông Stephen Schork, Chủ tịch Tập đoàn Schork, một công ty tư vấn tại Villanova, Pennsylvania cho biết.
MINH ANH (lược dịch)
Nguồn: Info.net: http://infonet.vn/my-se-tu-tuc-dau-mo-trong-23-nam-toi-post126120.info
Năm 2020 Mỹ sẽ là nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới
Cuối thập niên 1950, nước Mỹ đã tự cung ứng đủ than đá, dầu hỏa và khí đốt cho người dân sử dụng. Nhưng khi người Mỹ ngày càng giàu hơn, chạy những chiếc xe to lớn và đắt tiền thì dầu lửa của nước này không còn đủ để cung ứng cho nhu cầu hằng ngày nữa. Ngày nay, Mỹ tiêu thụ gần 20% tổng năng lượng toàn cầu.
Tuy Trung Quốc là nước sử dụng năng lượng nhiều nhất thế giới, song nếu tính bình quân mức tiêu thụ trên đầu người thì mỗi người Mỹ tiêu thụ năng lượng nhiều gấp 3,5 lần mỗi người Trung Quốc. Trong cuộc vận động tranh cử vừa qua, cả hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ Mitt Romney và Barack Obama đều đề cập đến khả năng đạt đến sự “độc lập về năng lượng” và điều này được cử tri đánh giá không phải là một lối tuyên truyền suông.
Bởi vì mới đây, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đã dự báo nước Mỹ sẽ trở thành nhà sản xuất dầu lửa lớn nhất thế giới vào năm 2020, vượt qua cả Ả Rập Saudi và Liên bang Nga. Vào thời điểm trên, nước Mỹ sẽ sản xuất được 11,1 triệu thùng dầu mỗi ngày để đến 15 năm sau (2035), sẽ tự túc được các loại năng lượng sử dụng trong nước. Khi đó, họ chỉ cần nhập khẩu dầu lửa bằng một phần ba mức sử dụng hiện nay, tức hơn 3 triệu thùng dầu/ngày, bù vào khoản nhập này bằng những khoản xuất các dạng năng lượng khác, chủ yếu là than đá và khí đốt.
Sự thừa thãi về khí đốt sẽ kéo theo sự hạ giảm của giá điện và điều này giúp nền công nghiệp Mỹ phát triển mạnh, đặc biệt trong những khu vực rất khát năng lượng như nhôm, thép và thủy tinh. Giá gas rẻ cũng sẽ tạo điều kiện phát triển nền công nghiệp hóa dầu trong việc sản xuất ra những mặt hàng hữu ích bằng nhựa. Gas không tạo ra nhiều khí thải độc hại bằng than đá và dầu lửa, thế mạnh này của Mỹ sẽ giúp giảm thiểu đáng kể lượng khí thải so với châu Âu.
Sự phát triển nguồn năng lượng của Mỹ ảnh hưởng đến cả những khu vực ngoài châu Mỹ và thay đổi vai trò của Bắc Mỹ trong thương mại năng lượng toàn cầu. Khi nước Mỹ tự cân đối được nguồn năng lượng cần sử dụng thì điều sẽ xảy ra là một phần khá lớn lượng dầu khí từ Trung Đông sẽ chuyển hướng về châu Á. Và điều này sẽ kéo theo mối quan tâm về sự an toàn của con đường chiến lược từ Trung Đông đi đến các thị trường châu Á.
Theo IEA, trong một tương lai gần, thị trường năng lượng toàn cầu sẽ bị tác động bởi một vài quốc gia đang xóa bỏ nguồn năng lượng hạt nhân cùng sự phát triển nhanh chóng của năng lượng gió và mặt trời. Đến năm 2035, năng lượng toàn cầu sẽ tăng thêm một phần ba so với thời điểm hiện tại, trong khi nhu cầu năng lượng sẽ tăng thêm 60% từ các nước Trung Quốc, Ấn Độ và khu vực Trung Đông.
Nguồn tin: doanhnhansaigon
Tác giả chia sẽ bài viết rất hay, thanks tác giả.
ReplyDelete----------------------
Mr.Nam
CHUYÊN BỘ CẢNH BÁO SỰ CỐ ĐƯỜNG DÂY TRUNG THẾ FCI