Học gì từ chính sách kinh tế của VNCH?
Việt Nam ngày nay nên học chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong cách nhìn về kinh tế thị trường cũng như cách đào tạo, trọng dụng nhân tài.
Nhận định trên được chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, một Việt kiều Mỹ nay đang sống ở Việt Nam, đưa ra trong cuộc phỏng vấn với BBC ngày 23/4.
Ông Thành cũng cho rằng "dư âm của nền kinh tế tập trung" đang hạn chế sự phát triển của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, cũng như trong tương lai.
BBC: Ông có thể cho biết một số đặc trưng của nền kinh tế miền Nam trước năm 1975?
Ông Bùi Kiến Thành: Trước 1975 thì kinh tế miền Nam, dù có những khó khăn do chiến tranh, nhưng vẫn là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Vì trong bối cảnh chiến tranh nên chính sách thời đó là mở rộng tất cả những gì có thể. Nông nghiệp thì gặp khó khăn về chiến tranh, thương mại cũng chỉ trao đổi hàng hóa, chứ việc phát triển công nghiệp thì chưa được bao nhiêu.
Nhưng nó vẫn là nền kinh tế cho phép nhân dân tự do tham gia, để những người có ý chí muốn làm kinh tế được tạo điều kiện tốt.
Trong những năm dưới Đệ nhị Cộng hòa thì có khó khăn do cơ chế quản lý nhà nước vẫn chưa có những kinh nghiệm trong vận hành kinh tế thị trường, quản lý nhà nước vẫn chưa hoàn toàn trong sáng, vẫn có những nhũng nhiễu của các nhóm lợi ích.
Trước 75 thì kinh tế miền Nam sống nhờ viện trợ hoa kỳ. Mỹ cung cấp cho miền Nam một tài khoản lớn, mỗi năm mấy trăm triệu đôla, mỗi năm nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam rồi chi cho chính phủ, chi cho phát triển.
Với nền Đệ nhị Cộng hòa thì chiến tranh mở rộng và chi phí của bộ máy quân sự Mỹ ảnh hưởng rất nhiều đến kinh tế. Nền kinh tế phát triển ảo, phát triển về hạ tầng chứ không phải phát triển doanh nghiêp để tạo ra công nghệ mới.
Nó có định hướng tốt là nền kinh tế thị trường nhưng không vững chắc, không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính.
Cả Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa đều không có điều kiện để phát triển hết tiềm năng của một nền kinh tế thị trường, do chiến tranh và việc chuyển đổi qua nền kinh tế kế hoạch tập trung rất là khắc nghiệt.
Nếu so sánh với các nước khác thì Đại Hàn bắt đầu dưới thời Park Chung Hee mới bắt đầu phát triển tốt và đến 70 mới phát triển xa hơn Việt Nam Cộng Hòa.
Không thể so sánh với những nước như Nhật được. Nhật đến năm 70 đã phát triển thành nền kinh tế tiến bộ rồi.
Singapore thời đó cũng chỉ mới bắt đầu có tiến triển dưới thời Lý Quang Diệu và đến 70 thì phát triển xa hơn miền Nam nhiều, vì cả ba nước này không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh.
Ở miền Nam trước 75 thì là một nền giáo dục rất mở, người sinh viên và các thầy giáo được quyền tiếp cận các nền giáo dục tư tưởng, dù là tư bản hay cộng sản, không hạn chế.
BBC: Xu hướng phát triển của Việt Nam Cộng Hòa sẽ như thế nào nếu được phát triển trong hòa bình, thưa ông?
Ông Bùi Kiến Thành: Nói chung nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa là một nền kinh tế thị trường có nhiều tiềm năng, nếu được phát triển trong hòa bình thì sẽ có nhiều khả năng phát triển tốt hơn là chính sách phát triển tập trung sau 30/4/1975.
Nếu Việt Nam có hòa bình thì những chính sách phát triển kinh tế bắt đầu từ nền Đệ nhất Cộng hòa vẫn được duy trì, như khu công nghiệp Biên Hòa, các trung tâm phát triển công nghiệp. Khi đó chúng ta học dần dần thì bắt đầu tích lũy kinh nghiệm và bắt đầu đi lên.
Tuy nhiên, sau 30/4 thì tất cả những kinh nghiệm đó bị chặn đứng, áp dụng kế hoạch tập trung của miền Bắc vào miền Nam, bao nhiêu doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, doanh nhân thì vào trại cải tạo hoặc bỏ xứ ra đi.
Nền kinh tế tan vỡ ra hết và nền kinh tế tập trung không phát triển được, việc ngăn sông cấm chợ khiến nền kinh tế đi vào ngõ cụt.
Đến khi đó nhà nước cộng sản mới áp dụng chinh sách Đổi Mới. Nhưng Đổi Mới không phải là kinh tế thị trường mà là nền kinh tế 'nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước".
Cho đến nay định nghĩa của nền kinh tế Việt Nam sau Đổi Mới vẫn chưa có gì mới hơn là định nghĩa năm 1986, là kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước.
Vì vậy nên đến 2015, chúng ta vẫn bị sự chi phối nặng nề của các doanh nghiệp nhà nước, không thoát ra được tư duy kế hoạch tập trung của một số lãnh đạo, và không thoát ra khỏi sự vận hành của kinh tế nhà nước, trì trệ và không có hiệu quả.
Từ năm 1985 đến giờ ta không bắt kịp các nền kinh tế khác vì tư duy không rõ ràng, không ai biết kinh tế xã hội chủ nghĩa là cái gì.
Một mặt thì nói là kinh tế thị trường, một mặt thì nói là có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã mất hết 30 năm mà vẫn còn loay hoay trong những việc làm không rõ ràng.
BBC: Liệu chính phủ ngày nay có thể học được gì từ chính sách kinh tế miền nam trước 1975 thưa ông?
Ông Bùi Kiến Thành: Thứ nhất là kinh tế là việc của nhân dân chứ không phải của chính phủ, chính phủ không làm kinh tế. Đó là bài học lớn nhất.
Phải bỏ tập quán chính phủ đi làm kinh tế. Đã có định hướng như thế rồi nhưng chính phủ Việt Nam vẫn chưa ra khỏi vấn đề tư duy kinh tế nhà nước.
Thứ hai là các nhóm lợi ích của thành phần cầm quyền có ảnh hưởng rất lớn về vấn đề lợi ích trong nền kinh tế, khiến nền kinh tế bị khống chế bởi một nhóm lợi ích, khó mà phát triển được.
Kinh tế làm sao phải lan tỏa được để mọi người có thể tham gia, làm sao để tổ chức mà cả hệ thống chính trị, hệ thống hành chính tạo điều kiện cho người dân tham gia bình đẳng vào vấn đề kinh tế.
Ở miền Nam khi đó không có vấn đề là đảng viên thì hay ở trong hệ thống tổ chức nào mới được trọng dụng.
Đến bây giờ chúng ta thấy rằng về vấn đề quản lý nhà nước, toàn thể Việt Nam vẫn ở trong hệ thống Đảng Cộng sản, không phải đảng viên thì không được gì, mà chưa hẳn là 4 triệu đảng viên cộng sản đã là tinh túy nhất của toàn dân Việt Nam, nên nó hạn chế việc đào tạo lãnh đạo quản lý nhà nước.
Chúng ta chưa thực sự mở cửa đào tạo, có hệ thống giáo dục tân tiến.
Đi vào đại học thì học những chuyện đã cũ rích rồi, từ những sách tiếng Anh dịch ra cho học sinh học mà thầy giáo đọc còn chưa hiểu, trong khi ở những nước khác, sinh viên học trên internet các dữ liệu, kiến thức mới.
Hệ thống giáo dục của Việt Nam chưa thể đưa những kinh nghiệm hay kiến thức mới vào nền giáo dục kịp thời, nên chúng ta đào tạo ra các sinh viên không đủ năng lực đi vào thực tế, đi vào xã hội.
Các doanh nghiệp khi thuê từ đại học ra phải đào tạo lại cho phù hợp với doanh nghiệp mình, nên tốn gấp đôi thời gian và tiền.
Bên cạnh đó, Việt Nam bây giờ còn có cái đại nạn là phải đi mua việc. Điều đó tạo ra vấn đề là những cán bộ làm việc trong cơ quan nhà nước không phải do năng lực. Những chuyện đó hạn chế chất lượng quản lý nhà nước của Việt Nam.
Ở miền Nam trước 75 thì là một nền giáo dục rất mở, người sinh viên và các thầy giáo được quyền tiếp cận các nền giáo dục tư tưởng, dù là tư bản hay cộng sản, không hạn chế.
Giáo dục miền Bắc khi đó chỉ có Marxist thôi, không được đọc sách báo, không nghe về tư bản chủ nghĩa, không nghe BBC, radio thì bị khóa không được mở các tần số đấy.
Giờ thì trong trường đại học mở ra nhiều hướng để sinh viên tiếp cận, ví dụ như Internet. Nhưng giáo trình thì không bao nhiêu, vì các thầy cũng có được học đâu, các thầy cũng học trong cơ chế xã hội chủ nghĩa bao năm nay rồi, nên việc đào tạo các thầy trước rồi đào tạo sinh viên sau khiến nền giáo dục bị chậm trễ.
Dư âm của một nền văn hóa tập trung vẫn khiến Việt Nam bị hạn chế cho đến nay.
BBC: Xu hướng phát triển của Việt Nam Cộng Hòa sẽ như thế nào nếu được phát triển trong hòa bình, thưa ông?
Ông Bùi Kiến Thành: Nói chung nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa là một nền kinh tế thị trường có nhiều tiềm năng, nếu được phát triển trong hòa bình thì sẽ có nhiều khả năng phát triển tốt hơn là chính sách phát triển tập trung sau 30/4/1975.
Nếu Việt Nam có hòa bình thì những chính sách phát triển kinh tế bắt đầu từ nền Đệ nhất Cộng hòa vẫn được duy trì, như khu công nghiệp Biên Hòa, các trung tâm phát triển công nghiệp. Khi đó chúng ta học dần dần thì bắt đầu tích lũy kinh nghiệm và bắt đầu đi lên.
Tuy nhiên, sau 30/4 thì tất cả những kinh nghiệm đó bị chặn đứng, áp dụng kế hoạch tập trung của miền Bắc vào miền Nam, bao nhiêu doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, doanh nhân thì vào trại cải tạo hoặc bỏ xứ ra đi.
Nền kinh tế tan vỡ ra hết và nền kinh tế tập trung không phát triển được, việc ngăn sông cấm chợ khiến nền kinh tế đi vào ngõ cụt.
Đến khi đó nhà nước cộng sản mới áp dụng chinh sách Đổi Mới. Nhưng Đổi Mới không phải là kinh tế thị trường mà là nền kinh tế 'nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước".
Cho đến nay định nghĩa của nền kinh tế Việt Nam sau Đổi Mới vẫn chưa có gì mới hơn là định nghĩa năm 1986, là kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước.
Vì vậy nên đến 2015, chúng ta vẫn bị sự chi phối nặng nề của các doanh nghiệp nhà nước, không thoát ra được tư duy kế hoạch tập trung của một số lãnh đạo, và không thoát ra khỏi sự vận hành của kinh tế nhà nước, trì trệ và không có hiệu quả.
Từ năm 1985 đến giờ ta không bắt kịp các nền kinh tế khác vì tư duy không rõ ràng, không ai biết kinh tế xã hội chủ nghĩa là cái gì.
Một mặt thì nói là kinh tế thị trường, một mặt thì nói là có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã mất hết 30 năm mà vẫn còn loay hoay trong những việc làm không rõ ràng.
BBC: Liệu chính phủ ngày nay có thể học được gì từ chính sách kinh tế miền nam trước 1975 thưa ông?
Ông Bùi Kiến Thành: Thứ nhất là kinh tế là việc của nhân dân chứ không phải của chính phủ, chính phủ không làm kinh tế. Đó là bài học lớn nhất.
Phải bỏ tập quán chính phủ đi làm kinh tế. Đã có định hướng như thế rồi nhưng chính phủ Việt Nam vẫn chưa ra khỏi vấn đề tư duy kinh tế nhà nước.
Thứ hai là các nhóm lợi ích của thành phần cầm quyền có ảnh hưởng rất lớn về vấn đề lợi ích trong nền kinh tế, khiến nền kinh tế bị khống chế bởi một nhóm lợi ích, khó mà phát triển được.
Kinh tế làm sao phải lan tỏa được để mọi người có thể tham gia, làm sao để tổ chức mà cả hệ thống chính trị, hệ thống hành chính tạo điều kiện cho người dân tham gia bình đẳng vào vấn đề kinh tế.
Ở miền Nam khi đó không có vấn đề là đảng viên thì hay ở trong hệ thống tổ chức nào mới được trọng dụng.
Đến bây giờ chúng ta thấy rằng về vấn đề quản lý nhà nước, toàn thể Việt Nam vẫn ở trong hệ thống Đảng Cộng sản, không phải đảng viên thì không được gì, mà chưa hẳn là 4 triệu đảng viên cộng sản đã là tinh túy nhất của toàn dân Việt Nam, nên nó hạn chế việc đào tạo lãnh đạo quản lý nhà nước.
Chúng ta chưa thực sự mở cửa đào tạo, có hệ thống giáo dục tân tiến.
Đi vào đại học thì học những chuyện đã cũ rích rồi, từ những sách tiếng Anh dịch ra cho học sinh học mà thầy giáo đọc còn chưa hiểu, trong khi ở những nước khác, sinh viên học trên internet các dữ liệu, kiến thức mới.
Hệ thống giáo dục của Việt Nam chưa thể đưa những kinh nghiệm hay kiến thức mới vào nền giáo dục kịp thời, nên chúng ta đào tạo ra các sinh viên không đủ năng lực đi vào thực tế, đi vào xã hội.
Các doanh nghiệp khi thuê từ đại học ra phải đào tạo lại cho phù hợp với doanh nghiệp mình, nên tốn gấp đôi thời gian và tiền.
Bên cạnh đó, Việt Nam bây giờ còn có cái đại nạn là phải đi mua việc. Điều đó tạo ra vấn đề là những cán bộ làm việc trong cơ quan nhà nước không phải do năng lực. Những chuyện đó hạn chế chất lượng quản lý nhà nước của Việt Nam.
Ở miền Nam trước 75 thì là một nền giáo dục rất mở, người sinh viên và các thầy giáo được quyền tiếp cận các nền giáo dục tư tưởng, dù là tư bản hay cộng sản, không hạn chế.
Giáo dục miền Bắc khi đó chỉ có Marxist thôi, không được đọc sách báo, không nghe về tư bản chủ nghĩa, không nghe BBC, radio thì bị khóa không được mở các tần số đấy.
Giờ thì trong trường đại học mở ra nhiều hướng để sinh viên tiếp cận, ví dụ như Internet. Nhưng giáo trình thì không bao nhiêu, vì các thầy cũng có được học đâu, các thầy cũng học trong cơ chế xã hội chủ nghĩa bao năm nay rồi, nên việc đào tạo các thầy trước rồi đào tạo sinh viên sau khiến nền giáo dục bị chậm trễ.
Dư âm của một nền văn hóa tập trung vẫn khiến Việt Nam bị hạn chế cho đến nay.
Nguồn:
25 tháng 4 2015
Bình Luận:
Trích: "Nó có định hướng tốt là nền kinh tế thị trường nhưng không vững chắc, không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính."
Vì sao nói là kinh tế phát triển dựa vào chiến tranh?
Khi Mỹ đưa quân đội vào miền Nam, sự hiện diện của một số đông đảo người đưa đến nhu cầu cung cấp dịch vụ cho khối người này. Khi khối người này phải chi tiêu cho dịch vụ thì đã đem lại cho nền kinh tế một khối lượng tiền khá lớn và tạo ra công ăn việc làm.
Một số đông đảo người Mỹ gia tăng ở thành phố tạo nên nhu cầu nhà ở. Một số người có nhà thay vì cho người Việt thuê thì cho Mỹ thuê với giá cao hơn. Thu nhập của họ cũng cao hơn. Một số người mua đất xây các chung cư 4, 5 tầng có hàng trăm phòng để cho Mỹ thuê. Người bán đất có tiền, người bỏ tiền ra xây nhà thu được tiền cho Mỹ thuê. Khi xây nhà thì thợ nề, thợ mộc, thợ điện cũng có việc làm.
Lính Mỹ khi rảnh rỗi đi chơi ăn uống, nhậu nhẹt. Các tiệm ăn, bar rượu kiếm được nhiều tiền. Nhiều cô gái đi làm cho các tiệm ăn, các bar rượu và làm điếm cũng kiếm được nhiều tiền. Với số tiền kiếm được họ ăn tiêu khiến cho những người bán hàng khác cũng bán được hàng, từ những người bán quần áo, giày dép đến những người bán xôi, chè, cháo, phở...
Người Mỹ lập ra các câu lạc bộ có ban nhạc để làm nơi cho lính Mỹ vui chơi. Một số thanh niên trẻ thành lập ban nhạc chơi cho các câu lạc bộ này cũng kiếm được tiền.
Quân đội Mỹ cũng cần có văn phòng làm việc. Xây cất văn phòng làm việc thì đem lại việc làm cho hãng thầu xây cất. Hàng thầu xây cất muốn vẽ các công trình thì cần có họa viên, kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng. Nhu cầu cần văn phòng làm việc đem lại việc làm cho giới xây dựng.
Người Mỹ dù là ở Việt Nam trong một thời gian ngắn những cũng phải ăn tiêu trong sinh hoạt. Vì thế các tiệm ăn, tiệm may quần áo, tiệm đóng giày... cũng có thêm khách.
Có một dịch vụ mà ít người tưởng tượng ra là dịch vụ thầu giặt quần áo cho Mỹ. Có người nhận quần áo từ các trại lính, văn phòng của Mỹ đem về giặt rồi là cho phẳng, gấp lại bỏ vào bao đem giao lại cho Mỹ. Dịch vụ này đem lại tiền cho người nhận thầu nhưng cũng đem lại công ăn việc làm cho nhiều người làm việc giặt ủi, kể cả đem lại tiền thuê đất để làm xưởng giặt.
Với những chi tiêu cho dịch vụ như vậy, một số lượng lớn đô la đã chạy vào nên kinh tế miền Nam. Vì thế mà gọi là kinh tế phát triển nhờ chiến tranh.
Nhưng không phải chỉ kinh tế miền Nam có lợi vì chiến tranh mà tại Mỹ, các công ty chế tạo vũ khí, các công ty cung cấp dịch vụ cho quân đội, các công ty xây cất cho các công trình phục vụ cho quân sự tại miền Nam cũng kiếm được tiền. Các công ty Nhật nhận thầu cung cấp quân trang, quân dụng cho quân đội Mỹ cũng kiếm được nhiều tiền khiến nền kinh tế Nhật tăng trưởng nhanh. Đó là thời người ta gọi là Phép Lạ Nhật Bản. Một số nhà thầu làm cầu đường của Nam Hàn cũng được nhận thầu làm cầu, đường tại miền Nam.
Sau 1971, khi quân đội Mỹ đã rút ra khỏi miền Nam thì sự chi tiêu của một khối người đông đảo không còn nữa nhưng nhiều người Việt đã làm giàu trong thời gian năm năm qua đã có vốn trong tay để đầu tư vào các cơ sở kinh doanh khác như lập hãng xưởng làm giày dép, làm đồ nhựa, lập trại nuôi gà, nuôi heo, biến những nơi thời xưa lính Mỹ ở thành nhà hàng, khách sạn...
Nhưng do chiến tranh, một số lượng đông đảo phái nam từ 18 cho đến 50 tuổi, là lứa tuổi có năng lực làm việc sung mãn nhất, phải phục vụ trong quân đội nên số lượng người tham gia vào sản xuất trong kinh tế cũng giảm đi đáng kể. Vì thế nên ông Bùi Kiến Thành nói là: "Cả Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa đều không có điều kiện để phát triển hết tiềm năng của một nền kinh tế thị trường, do chiến tranh"
Trích: "kinh tế là việc của nhân dân chứ không phải của chính phủ, chính phủ không làm kinh tế. Đó là bài học lớn nhất."
Nhưng người Cộng Sản thì tin tưởng rằng ai nắm kinh tế thì nắm quyền lực vì thế họ muốn chính phủ cũng làm kinh tế để đảng Cộng Sản không bị mất quyền lực. Ai nắm kinh tế thì nắm quyền lực được thấy qua thời kỳ Cách Mạng Công Nghiệp tại Anh. Những người dân Anh làm giàu nhờ kinh doanh vì thế họ đã có quyền lực đối với vua Anh. Các quí tộc và dân thường có của cải đã làm áp lực với vua Anh đòi vua khi làm ra luật phải có đại diện của dân phê chuẩn và vua phải tuân theo luật lệ. Dần dần giới nhà giàu có nhiều quyền hơn. Cho đến ngày nay, vua Anh không còn quyền hành nữa.
Đảng Cộng Sản tại Trung Quốc và Việt Nam hiện nay sợ mất quyền lực nên tiếp tục nắm nhiều nguồn lợi kinh tế, tiếp tục duy trì chế độ đất đai thuộc về nhà nước.
Tại Trung Hoa, các triều đại vào thế kỹ 15 - 16 trở về sau vua thấy có nhiều người dân giàu có và tìm cách kềm chế vì sợ quyền lực của dân gia tăng. Triều đình hạn chế số người được kinh doanh và việc tịch thu tài sản của nhà giàu là chuyện không hiếm.
Triều đình kiềm chế người dân giàu có thể là lý do khiến cho chế độ tư bản không xảy ra ở Trung Hoa mà chỉ xảy ra ở Anh. Các học giả Tây Phương thấy rằng từ đời nhà Minh trở đi, Trung Hoa có nhiều thành phố lớn có dân số đông đảo, nghĩa là có người tập trung của cải trong tay nhiều nhờ sản xuất, buôn bán. Như thế Trung Hoa có điều kiện để tiến lên chế độ tư bản nhưng điều đó đã không xảy ra.
Có thể các học giả Tây Phương không để ý đến việc vua chúa Trung Hoa cai trị theo nguyên tắc của Pháp Gia, nghĩa là luôn luôn tập trung quyền lực vào tay nhà vua. Nhà vua không để cho trung tâm quyền lực tồn tại ở phía người dân hay tổ chức tôn giáo của dân mạnh hơn quyền lực của vua. Vì thế tầng lớp giàu có tại Trung Hoa bị áp chế và không có quyền lực để khuynh đảo vua như ở Anh.
Kết quả của giới công thương nghiệp bị áp chế là công nghiệp tại Trung Hoa đã không phát triển mạnh như ở Anh. Tại Anh, giai cấp tư sản được tự do hoạt động nên đã sản xuất nhiều hàng hóa, buôn bán khắp thế giới khiến cho nước Anh có thời kỳ rất hùng mạnh. Nhờ của cải do nền công nghiệp sinh ra mà nước Anh có tàu bè, quân đội mạnh đi đánh chiếm khắp nơi. Người Anh cũng đánh Trung Hoa và bắt Trung Hoa phải nhường một số vùng cho họ buôn bán.
Việc nhà vua áp chế được giới công thương nghiệp ở Trung Hoa cũng cho thấy là ai nắm vũ lực cũng nắm được quyền lực. Như vậy kinh tế hay đồng tiền không là nguồn đem lại quyền lực duy nhất. Với quân đội trong tay, nhà vua Trung Hoa đã dùng vũ lực khống chế quyền lực do đồng tiền đem lại của giới công thương nghiệp.
Vấn đề là sự tranh dành quyền lực giữa những người làm vì quyền và những người làm vì lợi. Hay nói cách khác đi là sự tranh dành quyền lực giữa những người nắm vũ lực và những người nắm kinh tế. Các vua chúa là những người làm vì động cơ quyền lực. Nhờ có khả năng đánh nhau mà họ dùng vũ lực chiếm được ngai vàng thỏa mãn cho lòng ham quyền lực của họ. Còn giai cấp tư sản là những người ham lợi. Họ chỉ muốn ngày càng giàu có hơn mà không màng đến chuyện nắm quyền. Giai cấp tư sản ở Anh chỉ muốn triều đình để họ tự do làm ăn, tôn trọng của cải của họ làm ra, đừng tịch thu của cải của họ, đừng đặt ra thuế nặng quá làm cho họ không làm ăn nổi. Triều đình Anh tôn trọng những yêu cầu của giai cấp tư sản và còn hợp tác với giai cấp tư sản bằng cách xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh để bảo vệ cho các tàu buôn của Anh có thể đi buôn bán khắp nơi mà không sợ bị nước khác cướp đoạt và ngăn cản.
Tại Trung Hoa, nhà vua áp chế giai cấp tư sản, kết quả là nền kinh tế kém phát triển. Kinh tế kém thì không có tiền để xây dựng lực lượng quân đội hùng mạnh nên bị các nước Tây Phương giàu có, hùng mạnh hơn đến lất át.
Các vua chúa Trung Hoa dùng vũ lực áp chế giai cấp tư sản để bảo vệ quyền lực của mình nghĩ rằng làm như thế là khôn. Nhưng kết cục là làm như thế thì kinh tế sẽ kém cỏi, nước sẽ bị nghèo yếu và bị nước khác đến lấn át. Người dân thấy vua không bảo vệ nổi chủ quyền quốc gia nên nổi lên lật đổ nhà vua.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: "Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống".
No comments:
Post a Comment