Ngân sách 2012 của Trung Quốc dành cho an ninh nội địa “ giữ vững ổn định” lên tới 701.7 tỉ RMB ( 110 tỉ USD) lớn hơn cả ngân sách quốc phòng với 670.2 tỉ RMB ( 106 tỉ USD). Do đó những người hoạt động nhân quyền ở Trung Quốc nói rằng hóa ra kẻ thù lớn nhất của chính quyền Trung Cộng chính là nhân dân Trung Quốc, mà không phải là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của họ là Mỹ hay các nước đồng minh.
Để ổn định xã hội, ngoài những biện pháp duy trì trật tự an ninh xã hội thường thấy, Trung Quốc còn muốn khống chế một mặt trận quan trọng hơn. Mạng internet đã cung cấp một không gian rộng lớn cho những “ ý kiến khác biệt” với tuyên truyền của nhà nước, bắt đầu từ năm 1994, Trung Quốc bắt đầu thắt chặt kiểm soát trên mạng, giới cầm quyền đã thực thi ít nhất 37 pháp lệnh, thông tư cũng như tăng thêm các vòng kim cô để khống chế.
“ Vạn Lý Hỏa Thành” duy trì ổn định đất nước.
Trung Quốc bước đầu đã dựng nên “ Vạn Lý Hỏa Thành - Great Firewall” vào năm 1998 với một hệ thống kiểm tra, giám sát và những bộ lọc thông tin để ngăn cách cư dân mạng trong nước với những “ thông tin không hữu hảo” đối với chính quyền Trung Cộng.
Bắt đầu từ 2004, chính quyền Trung Cộng đã cho thành lập bộ phận giám sát mạng tại hơn 700 tỉnh thành khắp cả nước. Năm 2002 nghiên cứu phát triển thành công bộ lọc mới để ngăn chặn thông tin qua những từ khóa. Năm 2003 quy hoạch các công ty mạng vào một công ước mang tên “ Công ước tự tôn trọng pháp luật của các công ty Internet Trung Quốc “ với tất cả những tên tuổi lớn như Sina, Souhu, còn có cả Yahoo chi nhánh Trung Quốc…Những công ty kí vào công ước phải cam kết không phát tán tin tức phi pháp, cũng không được đăng tải, sáng tác những những văn kiện, thông tin có khả năng gây bất lợi cho sự ổn định của chính quyền.
Cũng từ 2003, với hơn 120.000 quán internet, có hơn một nửa phải đóng cửa thông qua các hoạt động trấn áp tự do ngôn luận trên mạng, một nửa còn lại thì được cài các phần mềm giám sát. Vậy nên năm 2009 mới xuất hiện cái thông tư quái đản làm nóng dư luận quy định máy tính bán ra được tặng kèm theo phần mềm “ an toàn “ tên là “Green Dam Youth Escort – 绿坝 – con đập xanh”
Năm 1998, Trung Quốc bắt đầu thực thi đề án với tên gọi”金盾工程 - Golden Shield”,năm 2003 đầu tư 800 triệu USD thành lập cơ quan nhà nước có tên gọi “Công trình tự động hóa thông tin cơ quan an ninh toàn quốc thuộc đề án Golden Shield”. Nó được hoàn thành vào năm 2006, giai đoạn 2 của công trình này vẫn đang được tiến hành ráo riết.
Golden Shield bao gồm những kĩ thuật nhận dạng ngôn ngữ, dùng để tự động giám sát nghe trộm nội dung các cuội gọi điện thoại, xem trộm, cắt đứt các hoạt động trên mạng của người dùng, thậm chí có thể giám sát, ăn trộm nội dung thông tin từ các kết nối Bluetooth hay Wireless…( chú thích: Các nguồn tin phương Tây cho rằng Vạn Lý Hỏa Thành là một công trình thuộc Golden Shield, tuy nhiên 2 chương trình này không phải cùng một bộ phần điều hành. Golden Shield thuộc bộ công an quản lí, còn Great Firewall thì được cho là thuộc Bộ an ninh quốc gia 国家安全部 và Bộ trung ương truyền thông中共中央宣傳部quản lí)
Đội quân đánh thuê trên mạng
Theo nghiên cứu năm 2004 của Berkman Center thuộc đại học Harvard, trung tâm này đã thử nghiệm 203,217 trang web, trong đó có 18,931 ( 9.3%) đã bị khóa bởi hệ thống tường lừa của Trung Quốc. Dân mạng Trung Quốc vì muốn thoát ra khỏi bức tường, đã sử dụng các phần mềm tương tự như Freegate – 自由门 để vượt qua sự kiểm duyệt.
Lấy BBS làm ví dụ, ở đại học Bắc Kinh có giao diện diễn đàn tên là “ rối như canh hẹ-一塌煳涂” thường bàn luận các vấn đề phủ bại của chính phủ cũng như thường có các ý kiến về dân chủ, nhân quyền, tới năm 2004 thì bị đóng cửa. Sau đó những diễn đàn có từ ngữ liên quan như “一塌 煳 涂” ” 煳涂” “一塌” “ytht” “yitahutu” đều bị đóng cửa bởi bộ lọc kiểm duyệt, đồng thời các trường đại học ở Trung Quốc cũng công bố cấm thảo luận tới vấn đề “ rối như canh hẹ” này.
Để tiến tới việc gia tăng khống chế các diễn đang BBS của các trường đại học, bộ giáo dục Trung Quốc đã yêu cầu đổi các BBS thành nơi giao lưu của các thành viên trong trường với danh tính thật, đồng thời áp dụng BBS của đại học Thanh Hoa là “ Thanh Đại Thủy Mộc” làm mẫu, sau đó chính quyền tiếp nhận quyền quản lí diễn đàn này. Với tình hình như vậy, những BBS của các trường đại học khác không còn cách nào hơn là đóng cửa.
Dùng máy móc kĩ thuật vào công cuộc kiểm soát thông tin nhằm giữ ổn định cho chế độ là không xuể, đơn giản vì thế giới mạng là không có biên giới, cho nên Trung Quốc cũng đầu tư một lướng lớn nhân lực vào cuộc chiến khống chế tự do trên mạng.
Tháng 6/2012,một nghiên cứu của đại học Harvard có tên “"How Censorship in China Allows Government Criticism but Silences Collective Expression" đã chỉ ra: Chính phủ Trung Quốc đã huy động từ 20.000 tới 50.000 cảnh sát mạng cùng 250.000 tới 350.000 thành viên của “ Ngũ Mao Đảng – Đảng 5 hào” sử dụng cho các chiến dịch trấn áp khống chế trên mạng.
Những thành phần được gọi là “ đảng 5 hào” là tên gọi châm biếm của những “ bình luận viên trên mạng” được chính phủ trả công cho công việc bút chiến. Mỗi còm trên mạng cho nhữn bài văn có lợi cho chính quyền được trả công 5 hào( ½ RMB). Công việc của họ là chuyên phát tán những bài văn bốc thơm đảng hoặc chĩa mũi dùi, phê bình những í kiến hay bài văn bất đồng chính kiến, phản đối. Mục đích là để thế giới mạng đạt tới mức độ “ hài hòa”.
Ngoài nhân lực giám sát trên những trang mạng, còn phối hợp chặt chẽ với bên an ninh. Ví dụ vụ scandal của Bạc Hy Lai hồi tháng 3 đã dấy lên những bình luận náo nhiệt trên mạng. Trung Quốc đã khóa chức năng bình luận của nhiều trang mạng lại, đồng thời bắt giữ hàng nghìn blogger có phát ngôn “ ảnh hưởng ổn định xã hội”. Năm 2011 họ cũng đã ngăn chặn mọi tin tức về cách mạng hoa Nhài ở Bắc Phi và các nước Arab không những trên báo chí, truyền thông mạng mà còn cả email, tin nhắn điện thoại. Thậm chí những bào báo có chữ “ hoa nhài “ cũng bị cắt bỏ.
Như vậy có thể thấy chính phủ Trung Quốc không chỉ trấn áp những tiếng nói trong nước, nghiên cứu của Harvard còn cho thấy Trung Quốc cũng trấn áp những tiếng nói từ bên ngoài. Bao gồm cả trang web của nhật báo Apple ở Hongkong.
Trung Quốc đổ nhiều tiền của vào công cuộc theo dõi, ngăn chặn mạng internet, mục đích là để trấn áp bất cứ tiếng nói khác biệt với chính quyền của bất cứ ai trên không gian mạng. Một ví dụ là trang mạng có liên hệ mật thiết với phần lớn chúng ta là facebook. Có thể bạn không tưởng tượng được mỗi ngày chúng ta đều cập nhật trạng thái mới nhất của bạn bè thì người Trung Quốc đa phần không biết gì về trang này. Chỉ có một số ít thông qua các phần mềm vượt tưởng lửa như Freegate để truy cập một cách chập chờn. Trung Quốc cũng có phiên bản sơn trại nội địa hóa của mình là Renren.com nhưng lại phải dùng danh tính thật để đăng kí, quy định này cũng đại diện cho chế độ kiểm duyệt mạng ở nước này.
Trung Quốc cũng giống như Taiwan thời trước với chế độ kiểm duyệt báo chí gắt gao, chính quyền muốn đăng tin nào thì dân chúng chỉ được xem cái đó. Trung Quốc hiện không chỉ kiểm soát bao chí trong nước, họ còn quyết định xem những hãng tin nào được phép vào nước này, như từ chối cho nhật báo Apple của Hongkong và Taiwan vào nước này, tất nhiên là đi kèm với việc ngăn chặn trang web của báo này trên mạng.
by Hu Zi on Tuesday, October 2, 2012 at 9:33pm ·
Lược dịch từ bài của Hứa Kiện Tống trên Thinking Taiwan
Bình luận:
Internet giống như radio thời xưa ở chỗ nó là phương tiện thông tin. Chế độ CS Liên Xô, Trung Quốc và các chế độ CS cũng đã ngăn cản dân nghe các đài bên ngoài nước. Các chương trình Hoa Ngữ, Việt Ngữ của các đài VOA, BBC bị chính quyền CS phá sóng giống như ngày nay chính quyền CS ngăn cản tin tức bất lợi cho chế độ lọt vào trong nước. Vì thế tại miền Bắc trước đây có người trau dồi Anh văn để có thể nghe các chương trình tiếng Anh vì chế độ CS chỉ phá sóng các chương trình tiếng Việt. Tại Trung Quốc, nhà văn từng đoạt giải Nobel Cao Hành Kiện, hồi xưa thì trau dồi tiếng Pháp để có thể lén nghe chương trình tiếng Pháp của đài ngoại quốc. Mặc dù bị ngăn chặn, đài Châu Âu Tự Do cũng đã góp phần vào việc làm cho dân Đông Âu hiểu đời sống tại Tây Âu và Mỹ ra sao. Sự ngăn chặn giúp cho chế độ không bị thay đổi nhanh chóng nhưng ảnh hưởng của radio và Internet ngày nay cũng vẫn đóng góp trong việc thay đổi các chế độ độc tài, muốn độc quyền thông tin.
Đảng Cộng Sản Trung Quốc dĩ nhiên là thấy cái lợi của việc dựng tường lửa kiểm soát thông tin. Cái lợi đó là giữ cho dân Trung Quốc suy nghĩ trong vòng chính quyền cho phép mà thôi. Để có cái lợi này, những nhà lãnh đạo Trung Quốc chấp nhận đánh đổi lấy cái thiệt hại về phát triển tư tưởng. Có nhiều tin tức có ích lợi có thể đã bị chận bởi tường lửa cùng với tin tức bất lợi cho đảng Cộng Sản và chính quyền. Nhiều vấn đề không được phép thảo luận giữa người dân Trung Quốc với nhau, hoặc thảo luận nhưng theo chiều hướng khập khiễng, sai lạc. Cái lợi thì có thể nhìn thấy ngay trước mắt là chính quyền nắm được dân, còn cái hại thì khó mà đo lường bằng số lượng vì không thể đo lường cái thiệt hại về tư tưởng. Hơn nữa điều mà chính quyền Trung Quốc nghĩ rằng ngoài ra dân Trung Quốc vẫn hấp thụ được các tin tức về khoa học, kỹ thuật, nhân văn trên thế giới nhưng khó mà đo lường được việc người dân các nước Mỹ, châu Âu cũng hấp thụ được các tin tức đó mà lại được hấp thụ nhiều hơn dân Trung Quốc. Về lâu về dài, người dân các nước có tự do thông tin có trình độ dân trí cao hơn dân Trung Quốc. Việc kém về dân trí chỉ có thể nhận ra khi Trung Quốc lâm vào khủng hoảng hoặc về chính trị, hoặc về kinh tế, hoặc về xã hội mà trong nước không ai có sáng kiến để giải quyết, hoặc giải quyết nhưng đưa ra biện pháp sai lầm.
Trước đây Trung Hoa đề cao Nho Giáo và cho đó là chính sách có lợi cho quốc gia . Quả thật là Nho Giáo có giá trị và góp phần trong việc giữ gìn đạo đức và ổn định xã hội. Nhưng việc đề cao Nho Giáo khiến cho Trung Hoa ngừng có các tư tưởng mới ra đời. Các tư tưởng của các triết gia Trung Quốc chỉ sinh ra từ trước khi chế độ nhà Tần thống nhất đất nước. Lúc đó, Trung Quốc phân ra làm nhiều nước và các chính quyền không kiểm soát tư tưởng. Người dân thời đó có thể đi lại giữa các nước và cũng có thể đi truyền bá tư tưởng mới của mình. Nhà Tần thiết lập chế độ quân chủ, tập trung quyền vào tay nhà vua và khống chế tư tưởng, bắt dân chỉ được đọc những sách mà chính quyền viết mà thôi . Sau khi nhà Tần sụp đổ, Lưu Bang lập nên nhà Hán tiếp tục theo mô hình tập trung quyền vào tay nhà vua và nhà Hán bắt đầu sử dụng Nho Giáo. Nhà Hán và các triều đại sau tuy không độc tài cấm đoán như nhà Tần nhưng hễ ai có ý định viết ra tư tưởng gì mới thì các Nho sĩ nói rằng cái gì hay thì Khổng Tử và các nhà Nho đời trước đã nói rồi cần gì phải viết ra thuyết mới. Thái độ đó không khuyến khích tư tưởng mới nảy nở.
Đến thời người Mãn Thanh đánh chiếm Trung Hoa và cai trị hơn 300 năm, người Mãn Thanh đặt ra luật cấm dân bàn luận chính trị. Luật này có tác dụng cấm dân bàn về việc người Mãn Thanh cai trị người Hán là có chính đáng hay không. Luật này tuy có lợi cho triều đình nhà Thanh nhưng có hại cho việc phát triển tư tưởng.
Phải đến khi Trung Quốc bị các nước Tây phương dùng vũ lực uy hiếp bắt phải mở cửa cho họ vào buôn bán thì người dân Trung Quốc mới thấy nước mình bị lạc hậu và có người muốn canh tân. Những người muốn canh tân Trung Quốc bị những người thủ cựu cản trở vì những người thủ cựu quen thói không chấp nhận tư tưởng mới.
No comments:
Post a Comment