Monday, November 5, 2012

Tại sao không phải Việt Nam?

 Thủ đô Jakarta của Indonesia

Trong thời gian gần đây ở Nhật Bản có hai sự kiện liên quan kinh tế châu Á làm tôi suy nghĩ nhiều đến Việt Nam. Thứ nhất là Hội nghị quốc tế về Myanmar nhằm giúp nước nầy phục hưng kinh tế, tổ chức tại Tokyo ngày 11/10, ngay sau hội nghị thường niên của Ngân hàng Thế giới và Qũy tiền tệ quốc tế (IMF). Thứ hai là hiện tượng một cuốn sách về kinh tế của một nước châu Á đang bán rất chạy, đó là cuốn Indonesia: Cường quốc kinh tế của Sato Yuri, nhà nghiên cứu Nhật Bản chuyên về Đông Nam Á.

Hình ảnh của Myanmar trên vũ dài quốc tế ngày càng sáng sủa, kể từ khi chính phủ mới thành lập tháng 3 năm 2011, với thái độ, chính sách hòa hợp hòa giải của tổng thống Thein Sein và sự hưởng ứng tích cực của bà Aung San Suu Kyi, chủ tịch Liên minh quốc gia vì dân chủ (NLD). Mỹ đã hứa giải trừ hầu hết chính sách cấm vận và cộng đồng quốc tế đã đi đến đồng thuận là giúp Myanmar phát triển.

Hội nghị quốc tế về Myanmar có sự tham gia của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế trong đó có những nhà tài trợ lớn như Nhật, Ngân hàng thế giới, IMF, và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB). Đây cũng là những chủ nợ lớn của Myanmar từ trước. Mục đích của hội nghị là để quyết định việc xử lý những nợ tồn đọng làm tiền đề cho những khoản tài trợ mới nhằm giúp nước nầy xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thu hút đầu tư, mở đầu kỷ nguyên phát triển. Tại hội nghị, Nhật Bản, chủ nợ lớn nhất (500 tỉ yen) của Myanmar, đã cam kết xóa 300 tỉ yen và các ngân hàng thương mại Nhật sẽ cho vay 200 tỉ yen để trả số nợ còn lại. Ngân hàng thế giới cũng hứa cho vay 400 triệu USD và ADB cho vay 500 triệu USD để Myanmar trả họ các món nợ cũ. Đầu năm sau, Nhật và các cơ quan quốc tế sẽ quyết định cho Myanmar vay những khoản mới để xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong tình hình mới nầy, Câu lạc bộ Paris mà các nước Âu châu là thành viên cũng dự kiến có hành động tương tự đối với Myanmar.

Từ trước hội nghị quốc tế, ở Nhật đã xảy ra hiện tượng “Bùng nổ Myanmar”: Sách báo viết về Myanmar, chương trình truyền hình về nước nầy xuất hiện nhiều, doanh nghiệp Nhật đổ xô sang Myanmar tìm cơ hội đầu tư. Đặc biệt Tổ chức xúc tiên mậu dịch Nhật (JETRO) và nhiều tập đoàn kinh tế đã lập phòng đại diện tại Yangon, cựu thủ đô và là thành phố lớn nhất Myanmar. Các tập đoàn Mitsubishi, Sumitomo và Marubeni đã quyết định xây dựng các khu công nghiệp để thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào nước nầy. Ngày 15/10, hãng hàng không ANA bắt đầu đường bay trực tiếp từ Tokyo đến Yangon.

Sự kiện này làm tôi nhớ lại năm 1993, năm “Bùng nổ Việt Nam” trên vũ đài thế giới, nhất là tại Nhật. Nhật đi đầu trong việc nối lại viện trợ cho Việt Nam (vào cuối 1992) và vận động các nước khác và các tổ chức tài chánh quốc tế để đi tới Hội nghị quốc tế về Việt Nam tại Paris (Hội nghị nầy sau đó tổ chức hàng năm với tên gọi là CG –Consultative Group). Tôi vẫn nhớ rất rõ không khí sôi nổi không phải chỉ trong giới doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức kinh tế, mà còn trong giới truyền thông, học thuật, ... khi bàn về triển vọng phát triển của Việt nam. Doanh nghiệp, ngân hàng Nhật đã ồ ạt sang Việt Nam như ta đã biết.

Nhưng hiện tượng “bùng nổ Việt Nam” chỉ kéo dài độ 3 năm, đến khoảng đầu năm 1996. Tại Nhật, quan tâm về Việt Nam nguội dần. Trên thực tế, nhiều dự án đầu tư của Nhật tại Việt Nam dừng lại, và rất ít dự án mới, nhiều văn phòng đại diện của ngân hàng thu hẹp phạm vi hoạt động, có cả trường hợp họ đóng cửa và cho văn phòng ở Bangkok kiêm nhiệm. Không phải chỉ có sự thay đổi từ Nhật Bản. Nhìn toàn thể, FDI vào Việt Nam bị ngưng trệ trong một thời gian dài (từ 1997 đến 2004). Về nguyên nhân của tình trạng nầy, như ta đã biết, chính sách thu hút FDI có nhiều nội dung không hợp lý, xa lạ với thường thức quốc tế nhưng chậm được cải thiện, chính sách kinh tế hay thay đổi, thủ tục hành chánh rườm rà, chính sách gía cả dịch vụ phân biệt đối xử với người nước ngoài, và nhất là định hướng phát triển công nghiệp không rõ ràng, không có những yểm trợ cần thiết, v.v.

Cùng lúc đó, có hiện tượng bùng nổ đầu tư mới tại vùng duyên hải Trung Quốc và FDI chuyển nhanh sang thị trường lớn đó. Đầu năm nay, trong một hội nghị tại Tokyo, tôi gặp một cựu quan chức Bộ Tài chánh Nhật, một trong những người đại diện chính phủ Nhật phụ trách việc nối lại viện trợ cho nước ta và vận động chuẩn bị cho Hội nghị quốc tế về Việt Nam năm 1993. Ông nói với tôi đầy sự tiếc rẻ: “Hồi đó chúng tôi nghĩ Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ. Việt Nam chứ không phải Trung Quốc”.

So sánh thời điểm hai hội nghị quốc tế và hai hiện tượng bùng nổ, cũng như xét về tình trạng hạ tầng và nhiều tiêu chí khác, ta thấy Myanmar đi chậm hơn Việt Nam khoảng 20 năm. Nếu tình hình ở Việt Nam hiện nay không thay đổi, nếu Việt nam không nhanh chóng thực hiện thành công chiến lược tái cơ cấu và thay đổi mô hình tăng trưởng như đã bàn thì chuyện Myanmar theo kịp và vượt qua Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian.

Bây giờ bàn về cuốn sách Indonesia: Cường quốc kinh tế. Với dân số 240 triệu, thu nhập đầu người khoảng 3.500 USD, nền kinh tế 850 tỉ USD (tư liệu năm 2011) tuy không nhỏ (gấp 7 lần Việt Nam) nhưng cũng chưa thể gọi Indonesia là cường quốc kinh tế. Cuốn sách nầy cũng không có ý nói Indonesia đã là một cường quốc kinh tế. Nhưng bằng những phân tích từ lý luận kinh tế phát triển, bằng khảo sát chi tiết về tiềm năng, về thể chế, về chiến lược phát triển kinh tế vừa công bố năm ngoái và về khả năng của tầng lớp lãnh đạo hiện nay, tác giả đã chứng minh một cách rất thuyết phục rằng Indonesia đang bước vào giai đoạn phát triển cao, bền vững và sẽ là một cường quốc kinh tế trong tương lai không xa. Có thể tóm tắt 3 điểm chính:

Thứ nhất, ngoài sự phong phú và đa dạng về tài nguyên, là nước đông dân thứ tư trên thế giới, Indonesia được thuận lợi nhiều mặt về quy mô thị trường. Hơn nữa, cơ cấu dân số trong đó tỉ lệ người trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng trong khoảng 20 năm tới sẽ giúp cho nước nầy tăng tích lũy và bảo đảm nguồn lao động trong quá trình phát triển nhanh sắp tới. Nhưng điểm nầy chỉ là thuận lợi chứ không cơ bản. Hai điểm sau đây quan trọng hơn.

Thứ hai, chất lượng thể chế của Indonesia ổn định và ngày càng được cải thiện, được thế giới đánh giá cao. Sau cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á kéo theo sự sụp đổ của tổng thống Suharto (tháng 5/1998), quyền hạn của Quốc hội và tư pháp được củng cố, thể chế tam quyền phân lập được xác lập từng bước. Năm 1999 lần đầu tiên Indonesia thực hiện tổng tuyển cử, 5 năm sau, lần đầu tiên dân chúng được trực tiếp bầu tổng thống. Tổng thống được bầu Susilo B. Yudhoyono tiếp tục ổn định tình hình xã hội, kinh tế và được tái cử năm 2009. Ông đươc báo Time (Mỹ) năm 2009 bình chọn là 1 trong 100 người có ảnh hưởng trên thế giới, trong đó ông được xếp ở vị trí rất cao (thứ 9). Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định, chẳng hạn lạm phát từ năm 2009 đến nay được giữ ở mức trung bình 4 %, tỉ lệ nợ công trên GDP liên tục giảm (gần đây chỉ còn độ 25%), cán cân thanh tóan và cán cân vãng lai tính theo năm thì luôn xuất siêu từ những năm gần đây, v.v... Liên quan chất lượng thể chế để bảo đảm cho kinh tế ổn định, một điểm đáng nói là thống đốc ngân hàng nhà nước được độc lập, không bị chính trị chi phối, vì theo luật mới, một khi đã được Quốc hội bầu thì suốt nhiệm kỳ 5 năm cả tổng thống và quốc hội không có quyền bãi miễn.

Thứ ba, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế dài hạn được hoạch định công phu, nội dung có sức thuyết phục và các cơ chế, biện pháp thực hiện được dư luận trong và ngoài nước đồng tình. Năm 2009, sau khi đắc cử nhiệm kỳ 2, tổng thống Yudhoyono xúc tiến lập Chiến lược phát triển kinh tế 15 năm (2011-2025) với phương châm kế hoạch phải phát huy được hết tiềm năng của Indonesia và là khi công bố phải “biểu thị được ý chí phát triển không có gì đáng hổ thẹn với thế giới”. Phương pháp lập kế hoạch là huy động trí tuệ của chuyên gia, trí thức và triệt để dân chủ và phân quyền. Cứ vài ba tháng, tổng thống triệu tập lãnh dạo của 13 châu trong cả nước và đại diện các đoàn thể kinh tế cùng với giới chuyên gia hội họp một lần để bàn nội dung kế hoạch và các công cụ chính sách để thực thi. Sự phân công về vai trò của nhà nước và thị trường, của trung ương và địa phương cũng được đặc biệt lưu ý.

Tháng 5 năm 2011, khi kế hoạch soạn xong, đích thân tổng thống Yudhoyono công bố với cả giới truyền thông trong và ngoài nước. Nội dung chiến lược 2011-2020 được công bố bằng cả tiếng Indonesia và tiếng Anh. Theo chiến lược nầy, toàn quốc sẽ chia làm 6 vùng phát triển, gồm tất cả 22 ngành, mỗi vùng phát triển chú trọng một số ngành tùy theo đặc điểm của mình. Nhìn chung, 22 ngành ấy có cả nông lâm ngư nghiệp, chế biến công nghiệp, du lịch, công nghệ thông tin, v.v.. phản ảnh tính chất và quy mô của một nền kinh tế đông dân và nhiều tài nguyên. Chủ thể đầu tư chính cho chiến lược là tư nhân trong và ngoài nước. Kể cả các dự án kết hợp tư nhân và chính phủ (hình thái PPP), tỉ lệ của tư nhân (bao gồm FDI) trong tổng đầu tư chiếm gần 75%. Đầu tư của chính phủ tập trung vào hạ tầng và đặt trong tâm vào việc liên kết các vùng kinh tế.

Chiến lược 15 năm nầy dự kiến kinh tế Indonesia phát triển trung bình 7-9%/năm và vào năm 2025, Indonesia sẽ là một trong 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới với GDP khoảng 4.000- 4.500 tỉ USD và GDP đầu người độ 14-15 nghìn USD. Ngoài 3 đặc điểm giới thiệu ở trên, trong cuốn sách đã dẫn, tác giả Sato phân tích nhiều mặt khác, như bộ máy hành chánh, chất lượng quan chức, sự thay đổi tư duy của giới doanh nghiệp,... và kết luận là khả năng thành công của Chiến lược 2011-2025 của Indonesia là rất lớn.

Đọc cuốn Indonesia: Cường quốc kinh tế, trong đầu tôi luôn hiện ra câu hỏi: Tại sao không phải Việt Nam? Tới bao giờ Việt Nam mới được người dân trong nước và dư luận quốc tế tin tưởng sẽ có ngày trở thành một nền kinh tế có địa vị đáng kể trên thế giới? Tuy dân số không bằng Indonesia nhưng Việt Nam cũng là một nước đông dân (xếp thứ 13 trên thế giới). Các điều kiện khác thì Việt Nam thuận lợi hơn nhiều. Indonesia có hơn 10.000 đảo lớn nhỏ, việc xây dựng hạ tầng rất tốn kém và khó có hiệu quả cao. So với Việt Nam, khí hậu Indonesia không thuận lợi bằng và họ lại nằm xa các trung tâm phát triển ở Á châu. Việt Nam còn nhiều yếu tố thuận lợi khác nữa.

Hiện nay quan hệ Nhật Trung xấu đi nên Nhật chuyển đầu tư sang các Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Do đó mặc dù nhìn chung, FDI vào Việt Nam gần đây giảm nhiều nhưng riêng của Nhật thì tăng đáng kể. Tuy nhiên, cần chú ý là Nhật đang chú trọng đầu tư ở Thái Lan và Indonesia hơn là Việt Nam. Năm ngoái tuy FDI của Nhật tại Việt Nam đạt 150 tỉ yen, tăng 2,4 lần so với năm trước, nhưng trong cùng thời kỳ FDI của Nhật tại Thái Lan lên tới 570 tỉ yen, tăng gần 3 lần, và tại Indonesia 280 tỉ yen, tăng tới 7 lần và còn đang tăng nhanh. Một điểm đáng lưu ý nữa là dư luận ở Nhật nói chung ngày càng ít lạc quan về triển vọng phát triển của Việt Nam nên khuynh hướng tăng FDI của Nhật có thể sẽ không bền vững, trừ trường hợp Việt Nam cho thấy có tiến bộ rõ rệt trong quá trình cải cách thể chế và có chiến lược phát triển được đánh giá là khả thi.

Liên quan đến FDI tại Á châu, một điểm nổi bật gần đây là các công ty xe hơi của Nhật và Hàn Quốc đã chọn Indonesia làm cứ điểm sản xuất mới và đang triển khai nhiều dự án cụ thể. Cuối thập niên 1980, Thái Lan đã thành công trong việc thu hút FDI của Nhật và từ thập niên 1990 đã trở thành cứ điểm sản xuất xe hơi quan trọng. Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội trong hai thập niên 1990 và 2000 để bây giờ cơ hội đó đang chuyển sang Indonesia.

Tiềm năng của nước ta rất lớn, nhưng đến bao giờ mới được phát huy? Trào lưu phát triển ở Á châu đang bỏ Việt Nam lại đằng sau./.


Trần Văn Thọ


Bình Luận:


Ngay cả khi Việt Nam mở cửa thu hút đầu tư thì các công ty sản xuất xe gắn máy và xe hơi của Nhật vẫn đặt cơ sở sản xuất chính ở Thái Lan và chỉ lắp ráp ở Việt Nam. Ngày nay, theo bài viết này thì Nhật sẽ chọn Indonesia để đặt cơ sở sản xuất xe hơi. Trước đây, khi tướng Suharto còn cầm quyền, thì ông đặt ra hàng rào quan thuế, đánh thuế cao các hãng xe không phải là của Indonesia đồng thời ưu đãi hãng xe hơi của Indonesia, do con ông ta làm chủ. Việc làm này đã bị Mỹ phàn nàn và có lẽ đó cũng là lý do khiến cho các nhà sản xuất xe hơi Nhật thấy Indonesia lúc đó không phải là nơi thuận lợi để đầu tư. Khi Indonesia lâm vào khủng hoảng tài chánh năm 1997 và cần đến một món tiền cứu trợ lớn từ Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) thì quỹ này đặt ra điều kiện phải xóa bỏ sự đối xử phân biệt với các công ty trong và ngoài nước, phải giải tán các công ty do gia đình ông Suharto làm chủ. Ông Suharto từ chối điều kiện này và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế không cho Indonesia vay. Việc này khiến cho sinh viên Indonesia tức giận xuống đường biểu tình phản đối trong nhiều tháng liền. Trái với trước kia, ông Suharto không đàn áp sinh viên mạnh mẽ mà cuối cùng từ chức để Indonesia tiến theo hướng dân chủ. Sau khi ông Suharto từ chức thì các chính quyền kế tiếp thay đổi môi trường kinh tế vì thế ngày nay Nhật thấy Indonesia là nơi có thể đặt nhà máy sản xuất cho tương lai lâu dài.

Điều khác nhau giữa Thái Lan, Indonesia và Việt Nam là Thái Lan tuy hay có đảo chính nhưng kinh tế không bị phụ thuộc vào chính trị. Tại Thái Lan, dù chính phủ bị đảo chính nhưng luật lệ về kinh doanh không thay đổi, môi trường kinh doanh ít bị xáo trộn. Giới quân nhân tuy làm đảo chánh lật đổ chính phủ dân sự khi chính phủ này không theo ý họ nhưng họ không xen vào kinh tế mà để các nhà chuyên môn về kinh tế điều hành nền kinh tế. Tại Indonesia, nền kinh tế vào thời ông Suharto thiên vị cho gia đình ông ta và quân nhân được bổ nhiệm vào mọi cấp trong chính quyền đã sinh ra nạn tham nhũng, nhưng nền kinh tế vẫn do những người chuyên môn về kinh tế quyết định. Đó là đặc tính nói chung của các nước có chính quyền quân nhân cầm quyền. Các tướng lãnh chỉ dùng quân đội bảo vệ quyền lực của mình trong khi họ vẫn để kinh tế cho người chuyên môn lo. Tại miền Nam trước kia cũng thế . Ông Nguyễn Văn Thiệu tuy cầm quyền, nhưng chính sách và quyết định về kinh tế được giao cho những người từng học về kinh tế tại Pháp, Mỹ. Quân nhân chỉ lo về đánh trận mà không xen vào bàn về kinh tế.

Tại Việt Nam ngày nay thì khác vì những đảng viên đảng Cộng Sản cũng là người thấm nhuần chủ nghĩa Mác Lê. Mà chủ nghĩa Mác xít là một chủ nghĩa về kinh tế. Vì thế các đảng viên cho rằng mình cũng có hiểu biết về kinh tế và luôn luôn đòi có quyết định về kinh tế. Các đảng viên này xen vào kinh tế và không giao cho người chuyên về kinh tế quyền hạn thật sự mà chỉ dùng họ như là tư vấn. Dù mở cửa và theo kinh tế thị trường thì các đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam cũng vẫn lái kinh tế đi theo hướng nào có lợi cho đảng Cộng Sản. Nghĩa là vẫn duy trì các doanh nghiệp nhà nước, thực chất là doanh nghiệp của đảng Cộng Sản, để cho đảng Cộng Sản luôn luôn nắm được phần lớn nền kinh tế, và nghĩa là tiếp tục nắm được quyền lực.

Khi các đảng viên đã giành quyền quyết định về kinh tế để làm kinh tế làm sao cho có lợi cho đảng Cộng Sản thì gây ra những bất cập trong môi  trường kinh tế khiến cho tư bản nước ngoài thấy Việt Nam kém hấp dẫn hơn các nước khác.

Một yếu tố khác khiến Nhật chọn Thái Lan và Indonesia thay vì chọn Việt Nam là vì Thái Lan và Indonesia dù là nước có giới quân nhân chi phối đến chính trị nhưng về mặt sinh hoạt dân sự từ xưa đến nay vẫn là các nước cai trị theo luật lệ như các nước Tây phương. Trong khi đó Việt Nam chỉ mới áp dụng luật lệ vào cai trị kể từ khi đổi mới năm 1990 vì sau 1975 toàn bộ hệ thống luật pháp của miền Nam bị xóa bỏ, nên luật lệ ngày nay có nhiều chỗ bất cập, và nhất là những người lãnh đạo không có thói quen tôn trọng luật pháp, mà bất cứ khi nào muốn đều có thể vi phạm luật pháp, thay đổi luật pháp cho có lợi cho mình. Tình trạng luật pháp được thi hành một cách tùy tiện, luật lệ thay đổi luôn luôn tại Việt Nam khiến cho Nhật vẫn để các cơ sở sản xuất xe hơi quan trọng với vốn đầu tư lớn tại Thái Lan, trong khi chỉ đặt cơ sở lắp ráp tại Việt Nam để hễ kinh tế Việt Nam có gì thay đổi không có lợi cho Nhật thì Nhật chỉ bị thiệt hại nhẹ.

Xét về mặt xã hội, kinh tế, thì việc đi xuống của tướng Suharto chỉ là sự thay đổi người lãnh đạo còn về mặt kinh tế thì Indonesia vẫn là nền kinh tế thị trường, còn về xã hội thì Indonesia là nước theo văn hóa Hồi Giáo, theo các giá trị đạo đức của Hồi Giáo. Trong khi tại Việt Nam, khi đảng Cộng Sản Việt Nam đổi sang kinh tế thị trường là thay đổi toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời thay đổi về kinh tế là thay đổi về cách tư duy cùng với thay đổi một số giá trị đạo đức. Trước đây làm giàu bị chính quyền xem là bóc lột, là xấu xa, bây giờ thì chính quyền lại nói làm giàu là yêu nước. Như vậy xã hội và kinh tế Indonesia vẫn có nền nếp hơn xã hội và kinh tế Việt Nam. Vì Việt Nam mới thay đổi về kinh tế, xã hội nên cách hành xử của mọi người còn có những chỗ bất cập, nhất là những người lãnh đạo lại không dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ mà vẫn còn níu kéo thực tế để duy trì quyền lực cho đảng Cộng Sản Việt Nam.

No comments:

Post a Comment