Đó là khẩu hiệu của Karl Marx hô hào giai cấp công nhân đoàn kết lại để chống lại giai cấp tư sản. Theo Karl Marx vì phương thức sản xuất đã được toàn cầu hóa bao trùm nhiều quốc gia nên giai cấp công nhân của các nước đều là nạn nhân bị bóc lột của giai cấp tư sản của các nước. Do đó giai cấp công nhân của các nước trên thế giới phải đoàn kết lại để chống với giai cấp tư sản của các nước .
Từ đó mà đưa đến việc tiên đoán thế giới sẽ chia làm hai phe: phe vô sản và phe tư bản. Khi khối các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô gây dựng nên được hình thành thì nhiều đảng viên đảng Cộng Sản xem khối các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo là khối do giai cấp công nhân đoàn kết lại, còn khối các nước Tây phương gồm Mỹ, Anh, Pháp và các nước đã công nghiệp hóa là khối của giai cấp tư sản.
Nhưng rồi có những việc xảy ra cho thấy trong khối xã hội chủ nghĩa có những xung đột xem ra là giữa các dân tộc với nhau mà tình đoàn kết của giai cấp vô sản không thể giữ cho các nước đó tránh khỏi xung đột.
Đầu tiên là sau Đệ Nhị Thế Chiến 1945, Nam Tư không chịu đặt mình dưới sự lãnh đạo của Liên Xô mà đứng độc lập. Đến năm 1956, người dân Hungary nổi dậy, đòi quân đội Liên Xô phải rút đi và không chấp nhận sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Hungary khiến cho Liên Xô phải đem xe tăng và quân đội sang Hungary đàn áp, để đặt lại đảng Cộng Sản Hungary lên cầm quyền. Đến 1958, Trung Quốc cũng tách ra khỏi khối xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo mà đề ra thuyết thế giới ba phe: một phe do Liên Xô lãnh đạo, một phe do Trung Quốc lãnh đạo và khối kia là khối tư bản.
Liên Xô đem xe tăng sang Hungary đàn áp phong trào đòi độc lập của dân Hungary, 1956
Sau khi phe Cộng Sản thành công trong việc chiếm miền Nam năm 1975 thì xảy ra một loạt các cuộc xung đội giữa các nước xã hội chủ nghĩa với nhau: Việt Nam xung đột với Kampuchia từ 1976 đến 1986, Việt Nam xung đột với Trung Quốc năm 1979.
Và ngày nay, người Việt đang lo sợ trước việc Trung Quốc bành trướng lấn chiếm đảo và đất đai của Việt Nam. Xem ra tình đoàn kết giữa giai cấp công nhân của các nước không mạnh bằng tinh thần dân tộc muốn cho quốc gia được độc lập đối với các dân tộc khác.
Khi những người Cộng Sản Việt Nam tin tưởng là tình đoàn kết của giai cấp là mạnh mẽ và phải bao trùm lên sự phân chia giữa các dân tộc thì có những người Việt khác không tin là như vậy mà tin là sự phân chia giữa các quốc gia, giữa các dân tộc mạnh mẽ hơn là tình đoàn kết giữa giai cấp vô sản của các nước. Từ đó mà những người này tin rằng quốc gia phải bảo vệ sự độc lập của mình với các quốc gia khác, trong khi người Cộng sản thì tin rằng các nước do đảng Cộng Sản lãnh đạo phải đoàn kết với các nước khác cũng do đảng Cộng Sản lãnh đạo và các đảng Cộng Sản phải tuân theo sự lãnh đạo của một tổ chức cộng sản quốc tế đó là Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Khi tổ chức này được giải tán thì các đảng Cộng Sản phải tuân theo sự chỉ đạo của đảng Cộng Sản Nga. Sự khác nhau về cách suy nghĩ này đưa đến sự chia ra phe Quốc gia và phe Cộng Sản. Phe quốc gia chủ trương tranh đấu cho quốc gia, còn phe Cộng Sản chủ trương tranh đấu cho giai cấp vô sản.
Dưới đây là bài viết của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, trích từ tác phẩm Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn, viết năm 1964, giải thích vì sao sự phân chia giữa các dân tộc mạnh hơn sự phân chia về giai cấp tại các nước:
Người dân Hungary giật đổ tượng Stalin và cắt đầu tượng, 1956
2.- Sự thắng thế của nền tảng dân tộc đối với nền tảng giai cấp về phương diện vững bền trong quá khứ.
A-Sự suy sụp của chế độ phân chia giai cấp trong lịch sử.
Trong nhiều xã-hội loài người trước kia, người ta phân chia ra làm nhiều đẳng-cấp có luật-lệ qui-định giới-hạn một cách rõ ràng. Mỗi đẳng-cấp có những quyền-hạn, những nhiệm-vụ nhứt-định, và người ở đẳng-cấp khác nhau không được thông-hôn với nhau. Nhưng lần lần con người nhận thấy sự vô-lý, sự bất-công của chế-độ phân chia giai-cấp nên tìm cách hủy-phá nó, thành ra sự phân chia giai-cấp không còn được nhìn nhận.
Hiện giờ, không có một quốc-gia tối-tân nào theo một hiến-pháp chấp-nhận sự phân chia đẳng-cấp. Những nhà quí-tộc không còn nữa. Ở những nước họ còn được dung-nhận, tước-vị họ chỉ là dấu hiệu danh-dự chớ không giúp cho họ đặc-quyền gì. Trước pháp-luật họ được xem ngang hàng với tất cả mọi công dân khác.
Như thế, sự khu-biệt đẳng-cấp, một chế-độ nhơn-tạo đã lần lần bị hủy-diệt. Và hiện nay, mặc dầu có nhiều người cố-gắng đưa ra những học-thuyết có vẻ khoa-học để làm sống dậy ý-niệm giai-cấp, ý-niệm giai-cấp vẫn chìm sâu trong chỗ mờ mịt.
A-Sự suy sụp của chế độ phân chia giai cấp trong lịch sử.
Trong nhiều xã-hội loài người trước kia, người ta phân chia ra làm nhiều đẳng-cấp có luật-lệ qui-định giới-hạn một cách rõ ràng. Mỗi đẳng-cấp có những quyền-hạn, những nhiệm-vụ nhứt-định, và người ở đẳng-cấp khác nhau không được thông-hôn với nhau. Nhưng lần lần con người nhận thấy sự vô-lý, sự bất-công của chế-độ phân chia giai-cấp nên tìm cách hủy-phá nó, thành ra sự phân chia giai-cấp không còn được nhìn nhận.
Hiện giờ, không có một quốc-gia tối-tân nào theo một hiến-pháp chấp-nhận sự phân chia đẳng-cấp. Những nhà quí-tộc không còn nữa. Ở những nước họ còn được dung-nhận, tước-vị họ chỉ là dấu hiệu danh-dự chớ không giúp cho họ đặc-quyền gì. Trước pháp-luật họ được xem ngang hàng với tất cả mọi công dân khác.
Như thế, sự khu-biệt đẳng-cấp, một chế-độ nhơn-tạo đã lần lần bị hủy-diệt. Và hiện nay, mặc dầu có nhiều người cố-gắng đưa ra những học-thuyết có vẻ khoa-học để làm sống dậy ý-niệm giai-cấp, ý-niệm giai-cấp vẫn chìm sâu trong chỗ mờ mịt.
B- Sự tăng tiến của ý thức dân tộc.
Trong khi đó, ý-niệm dân-tộc càng ngày càng rõ rệt hơn lên. Không những chống chọi lại một cách thắng-lợi những sự cố-gắng của những nhà chinh-phục để hủy-diệt mình, ý-niệm này lại còn làm cho nhơn-loại có xu-hướng lấy phạm-vi dân-tộc làm biên-giới cho quốc-gia nữa.
Sau khi vượt khỏi phạm-vi bộ-lạc để tiến đến phạm-vi quốc-gia, loài người đã thiết-lập nhiều đế-quốc rộng lớn gồm có nhiều dân-tộc.
Những đế-quốc này, có cái duy-trì được lâu dài, có cái thì tan rã trong một thời-hạn ngắn sau khi được thành-lập, nhưng không có cái nào giữ mãi được biên-giới của mình, Những đế-quốc được dựng lên rồi sụp đổ, rồi lại dựng lên, mỗi lần với một biên-giới khác và một dân-tộc bá-chủ khác.
Lần nào, những dân-tộc bá-chủ cũng đem ngôn-ngữ, văn-tự, y-phục, phong-tục, tôn-giáo của mình ra để cưỡng-bách những dân-tộc bị chinh-phục phải theo. Thường thì họ chi-phối được những dân-tộc bại trận trong một thời-gian hoặc dài hoặc ngắn.
Cũng có khi dân-tộc thắng-lợi có một trình-độ văn-hóa thấp kém hơn dân-tộc bị chinh-phục và bị dân-tộc này chi-phối ngược lại. Đó là trường-hợp dân La-mã đối với dân Hy-lạp và những dân Mông-cổ, Mãn-châu đối với dân Hán.
Nhưng trong trường-hợp nào, những người thành-lập một đế-quốc cũng đều cố gắng hủy-phá những nền tảng của những dân-tộc bị chinh-phục để cho mọi người trong đế-quốc hỗn-hợp nhau lại thành một khối.
Lịch-sử đã chứng nhận rằng không có nhà chinh-phục nào thành-công trong dự-định trên này. Kết-quả lớn lao nhứt mà họ có thể đạt được là gây dựng một nền văn-tự chung và một hệ-thống chánh-trị hay đạo-đức chung cho đế-quốc họ. Những yếu-tố này thường chỉ dính dáng đến một thiểu-số có học-thức trong các dân-tộc, còn đại-chúng dốt nát thì không bị nó chi-phối một cách mạnh mẽ.
Phần lớn dân-chúng các dân-tộc bị thống-trị vẫn giữ ngôn-ngữ của họ, và trong ngôn-ngữ của dân-tộc chiến-thắng họ, họ chỉ mượn một số văn-từ thông-dụng mà thôi. Trong sự mượn văn-từ này, họ cũng sửa đổi âm-thanh cho hợp với giọng nói mình chớ không giữ nguyên giọng của dân-tộc ưu- thắng.
Suốt ngàn năm bị Hán-tộc đô-hộ, người Việt có mượn nhiều tiếng Hán, nhưng lại đọc theo giọng Việt. Hiện giờ, những tiếng ấy được mạng-danh là tiếng Hán-Việt, và trong các tự-điển, nó cũng được xem như là tiếng Việt.
Sau này, trong sự mượn văn-từ Pháp, người Việt cũng Việt-hóa những văn-từ ấy một cách mạnh mẽ đến nỗi khi nghe người Việt nói chuyện với nhau, những người Pháp không thạo tiếng Việt không thể nhận ra được những văn-từ trong ngôn-ngữ mình đã bị người Việt mượn.
Về y-phục và phong-tục cũng như về ngôn-ngữ, các dân-tộc bị thống-trị cũng chỉ bị chi-phối một cách yếu ớt mà thôi. Về tôn-giáo, nhiều khi họ phải buộc lòng tuân theo tôn-giáo của người chiến- thắng, nhưng trừ ra khi sự thống-trị kéo dài ra hàng thế-kỷ, những dân-tộc bị trị thường không thành-tâm tin nơi tôn-giáo ấy và sẵn sàng bỏ nó một khi gặp tình-thế thuận-tiện.
Chung-qui, những cố-gắng của những người xây dựng nên những đế-quốc thuở xưa chỉ làm cho những yếu-tố phụ-thuộc cấu-tạo tánh-cách một dân-tộc thay đổi chút ít mà thôi. Ta có thể bảo rằng những yếu-tố đó được trao đổi giữa các dân-tộc, nhưng không hỗn-hợp nhau lại để làm ra những yếu-tố chung cho tất cả mọi người.
Đối với yếu-tố chánh-yếu cấu-tạo tánh-cách những dân-tộc là yếu-tố huyết-thống hay chủng-tộc thì tình-thế phức-tạp hơn.
Có những dân-tộc bá-chủ muốn đồng-hóa các dân-tộc bại trận bằng văn-hóa mà không muốn trộn giống với những dân-tộc ấy. Trong trường-hợp này, sự nguyên vẹn của yếu-tố chủng-tộc trong các dân-tộc bị thống-trị là một điều tự-nhiên.
Nhưng cũng có nhiều nhà chinh-phục không cấm cản sự trộn giống giữa người trong dân-tộc mình và người những dân-tộc bị trị. Tuy thế, vì địa-vị xã-hội và chánh-trị chênh lệch nhau, vì ngôn-ngữ, phong-tục, tín-ngưỡng, tập-quán không giống nhau, vì tâm-tánh sai biệt nhau, những sự thông- hôn giữa người của dân-tộc thống-trị và người những dân-tộc bị trị không đủ quan-trọng để làm thay đổi tánh-cách chủng-tộc của những dân-tộc bị trị. Do đó, nền tảng huyết-thống của những dân-tộc bị trị cũng không phá hủy được.
Người ta có thể dựa vào chỗ những bộ-lạc, vẫn có thể đồng-hóa nhau về mặt chủng-tộc để lập thành dân-tộc mà chủ-trương rằng những dân-tộc cũng có thể đồng-hóa nhau về mặt chủng-tộc để trở thành một nhơn-loại đồng-nhứt.
Nhưng chúng ta nên lưu-ý rằng sở-dĩ các bộ-lạc có thể hỗn-hợp nhau để lập thành một dân-tộc là vì trong những quốc-gia nhỏ được thành-lập thuở xưa, nhà cầm quyền thường đã cấm những nhơn-viên cùng bộ-lạc thông-hôn nhau. Tục không cho người đồng-tánh lấy nhau – người đồng-tánh nguyên là người cùng do một bộ-lạc mà ra – là một di-tích của sự cấm-đoán này mà dân Việt-Nam hiện giờ còn rất nhiều người noi theo.
Đối với bộ-lạc thì sự cấm-đoán thông-hôn nhau như thế có thể thi-hành được, còn đối với những dân-tộc có một số người đông hơn nhiều quá, người ta làm sao có thể cấm họ thông-hôn với nhau được, nhứt là trong một thời -đại mà sự thạnh-hành của tư-tưởng dân-chủ bắt buộc nhà cầm quyền phải kính nể đời sống riêng của cá-nhơn ?
Bởi nhũng lý lẽ trên này, yếu-tố huyết-thống của các dân-tộc không ai làm lung lay nổi. Nó cứ duy-trì mãi mãi qua các thời -đại, qua sự sụp đổ của những đế-quốc. Mỗi khi đế-quốc sụp đổ, nó lại còn lôi kéo những yếu-tố phụ thuộc vào nó là ngôn-ngữ, y-phục, tín-ngưỡng trở về với bản-chất cũ của nó.
Sự vững chắc của yếu-tố huyết-thống làm cho nền tảng của dân-tộc vững chắc thêm. Sau bao nhiêu thế-kỷ quây-quần chung lộn nhau trong phạm-vi các đế-quốc, những dân-tộc lần lần có một ý-niệm rõ rệt về sự sống của mình và có xu-hướng đi đến chỗ thành-lập những quốc-gia riêng biệt. Xu-hướng này được tóm tắt trong nguyên-tắc « dân-tộc tự-quyết » rất thạnh-hành trong mấy thế-kỷ sau đây.
Sức mạnh của xu-hướng « dân-tộc tự-quyết » đã được chứng-nhận nhờ sự-kiện này : chỉ có những quốc-gia gồm một dân-tộc tạo thành là được vững chắc qua các thời-đại và có thể cấu-tạo lại được sau khi tan rã. Những đế-quốc gồm có nhiều dân-tộc tạp nhạp chỉ có thể duy-trì khi chánh-phủ trung-ương được tổ-chức mạnh mẽ và có đủ phương-tiện để đặt mọi người dưới một kỷ-uật sắt mà thôi. Một khi tan rã, những đế-quốc ấy rất khó phục-hồi lại được.
Đế-quốc Áo thiếu sự đồng-nhứt về phương-diện dân-tộc đã sụp đổ sau trận đại-chiến 1914-1918 và hiện giờ ai nói đến sự tái-lập nó tất bị xem như bất-thức thờI-cơ.
Nước Trung-hoa vì do một nhóm nhiều giống dân tạp nhạp chưa đồng-hóa nhau một cách rõ rệt tạo-thành nên thường phải đắm chìm trong vòng hỗn-loạn.
Người dân Latvia vừa biểu tình vừa hát trong phong trào Cách Mạng Hát, kéo dài từ 1987 đến 1991, đòi độc lập cho Latvia, tách khỏi Liên Bang Xô Viết
Nước Nga do nhiều dân-tộc hợp lại lập nên chỉ có duy-trì được nhờ một chế-độ cảnh-sát gắt gao. Những chánh-phủ Nga-hoàng đã cố gắng Nga-hóa những dân-tộc không phải Nga một cách vô- hiệu-quả ; đến lúc chế-độ Nga-hoàng bị lật đổ, những dân-tộc bị người Nga thống-trị như Ukraine, Arménie, Bielo-Russie, Ba-lan, Phần-lan v.v… đã phất cờ khởI-nghĩa, tuyên-bố độc-lập. Nhưng trừ ra Phần-lan, Esthonie, Lettonie, Lithuanie và Ba-lan nhờ hai nước Anh Pháp giúp đỡ nên giành được nền độc-lập hoàn-toàn của mình và duy-trì nó trong suốt hai trận chiến-tranh 1914-1918 và 1939-1945, còn những dân-tộc khác xấu số hơn – có hơn 10 dân-tộc – đã bị tràn ngập dưới làn sóng dập dồn của đạo Hồng quân do chính-phủ Sô-viết gởi đến chinh-phục lại. Tuy đã bị đặt dưới chánh-quyền Sô-viết từ mấy mươi năm nay, những dân-tộc khác dân-tộc Nga trong Liên-bang Sô-viết nhứt là dân-tộc Ukraine, vẫn luôn luôn ngấm ngầm vận-động độc-lập không lúc nào ngừng.
Xét những trào-lưu lịch-sử một cách kỹ-càng, chúng ta có thể quả-quyết rằng nhơn-loại luôn luôn tiến đến chỗ lấy dân-tộc làm nền tảng cho quốc-gia và làm cho phạm-vi quốc-gia trùng-hợp với phạm-vi dân-tộc sát chừng nào hay chừng ấy.
Người dân Ukraine xuống đường tại Quảng Trường Cách Mạng Zhovtneva ngày 24 tháng 8, năm 1991, đòi tách khỏi Liên Bang Xô Viết. Biểu ngữ ghi chữ "Ukraine rời bỏ Liên Bang Xô Viết".
3.- Sự thắng thế của nền tảng dân tộc đối với nền tảng giai cấp về phương diện bền vững trong tương lai.
Trong quá-khứ, nền tảng dân-tộc đã tỏ ra thắng-thế hơn nền tảng giai-cấp về phương-diện vững bền rồi. Trong tương lai, sự thắng-thế này còn được bảo-đảm một cách chắc chắn hơn nữa.
Hiện giờ, các văn-minh trên thế-giới không còn dùng luật-lệ để phân chia xã-hội ra làm giai-cấp. Trong những nước ấy, tất cả mọi người được xem ngang nhau trước công-lý.
Trong khi đó, sự phân chia dân-tộc đã được luật-lệ quốc-gia công nhận hẳn hòi. Ngay đến những dân-tộc mất quyền tự-do hiện nay, người ta cũng không thể dùng luật-pháp mà cưỡng-bách họ hủy-phá hết những đặc-tánh của họ.
Trong hơn 80 năm chiếm cứ được nước Việt-Nam, người Pháp chỉ có thể đem văn-hóa của mình mà phổ-biến ra và tìm cách chận nghẹt nền văn-hóa Việt một cách gián-tiếp mà thôi. Họ có thể ban Pháp-tịch cho một số người Việt, đào-tạo ra một hạng trí thức vong-bổn nói tiếng Pháp thạo hơn tiếng Việt, ăn bánh mì bơ nhiều hơn ăn cơm với nước mắm, thuộc sử sách Pháp nhiều hơn sử sách Việt và suy nghĩ theo Pháp hơn là theo Việt.
Nhưng người Pháp không thể cấm-đoán người Việt thông-hôn với nhau và nói tiếng Việt, mặc quốc-phục Việt, theo phong-tục Việt, đọc sử sách Việt, có tư-tưởng Việt, nghiên cứu nền văn-hóa cổ của dân Việt hay xây dựng một nền văn-hóa mới cho dân Việt. Vì đó, quốc-tánh Việt vẫn còn vững bền mãi mãi, và khi dân-tộc Việt có cơ-hội thoát-ly ách nô-lệ thì phần lớn những người Việt bị Pháp- hóa lại nghe tiếng gọi của giống nòi mà quay trở về nguồn-gốc tổ-tiên của mình.
Đối với những nhóm người chưa tiến đến một trình-độ văn-hóa đủ cao để lập thành một dân-tộc có lịch-sử như các giống dân da đen ở Phi-châu hay các đảo Thái-bình-dương, người Pháp mặc dầu chi-phối được họ một cách mạnh mẽ hơn dân-tộc Việt hay các dân-tộc Á Rập ở Bắc-Phi, vẫn không đồng-hóa được để làm cho họ thành người Pháp. Nói cho đúng ra thì ngoại-trừ một hai người được người Pháp đưa lên một địa-vị tuyệt cao trên nấc thang danh-vọng để lấy đó làm cái bằng-chứng mà tuyên-truyền cho tinh-thần không phân-biệt màu da của mình, đại-đa-số dân da đen ở các thuộc-địa Pháp chỉ được xem như là một thứ người Pháp hạ-cấp, nhiệm-vụ thì nhiều mà quyền-lợi thì không có bao nhiêu.
Chánh-sách thực-dân mà người Nhựt thi-hành ở Mãn-châu, Triều-tiên khắc-nghiệt hơn chánh-sách của thực-dân Pháp ở nước Việt, nhưng cũng không hủy-diệt được quốc-tánh Mãn-châu, Triều- tiên và mặc dầu người Nhựt đã đi đến kết-quả làm cho người Mãn-châu, Triều-tiên phần lớn không biết được lịch-sử dân-tộc mình, họ cũng không ngăn cản được dân Mãn-châu, Triều-tiên đứng lên đòi thoát-ly khỏi sự thống-trị cũa họ khi họ bị hai quả bom nguyên-tử mà phải cúi đầu hàng-phục quân-đội đồng-minh.
Sau cùng, chính-sách của những nhà chỉ-huy Liên-bang Sô-viết để hủy-diệt ý-thức dân-tộc của những giống dân đặt dưới quyền họ cũng không đưa họ đến kết-quả mong ước, tuy họ có một khí-giới hết sức lợI-hại là thuyết xã-hội duy-vật Karl Marx.
4.- Những sự kiện chứng nhận thêm cho sự bền vững của dân tộc trong tương lai.
Sự bền-vững của dân-tộc đã được lịch-sử chứng-nhận trong quá-khứ và được chế-độ xã-hội hiện giờ bảo-đảm trong tương-lai. Ngoài ra, còn nhiều sự-kiện khác giúp thêm vào sự bền vững này nữa.
Sự bền-vững của dân-tộc đã được lịch-sử chứng-nhận trong quá-khứ và được chế-độ xã-hội hiện giờ bảo-đảm trong tương-lai. Ngoài ra, còn nhiều sự-kiện khác giúp thêm vào sự bền vững này nữa.
A- Sự thay đổi dân tộc phiền phức và có tánh cách gượng gạo hơn sự thay đổi giai cấp.
Vì những yếu-tố cấu-thành tánh-cách của dân-tộc rõ ràng hiển-hiện trước mắt mọi người, vì giớI-hạn phân chia các dân-tộc được qui-định hẳn hòi và được công-nhận đàng-hoàng, nên khi một người bỏ dân-tộc mình để nhập-tịch dân-tộc khác, anh ta phải nộp đơn xin dân-tộc khác ấy chấp-nhận mình làm nhơn-viên của nó. Muốn cho đơn mình được chấp-nhận người xin nhập-tịch phải có đủ những điều-kiện mà dân-tộc anh ta muốn gia-nhập đưa ra, và lắm khi phải lập những công-trận như thế nào, cho dân-tộc ấy xem anh ta là xứng đáng làm một nhơn-viên của nó mới được.
Trong thời-kỳ nước Việt bị đô-hộ, đã có mấy người Việt xin nhập Pháp-tịch mà được toại nguyện đâu. Số ít những người lọt qua những điều-kiện mà chánh-phủ Pháp đưa ra để nhận họ làm công-dân của mẫu-quốc cũng không phải vì thế mà được thành người Pháp hoàn-toàn.
Nếu họ có thể hoán-cải những yếu-tố phụ-thuộc bên ngoài để nhái cho hệt người Pháp, họ vẫn không làm cho mắt họ trở nên xanh, tóc họ mất màu đen và da họ thành trắng. Và nếu về mặt nguyên- tắc, họ có đủ những quyền-hạn và nhiệm-vụ của một công-dân Pháp, về mặt thực-tế, họ chỉ được xem như là một người Pháp hạ-cấp, một thứ người Pháp hạng ba.
Ta có thể ví những người Việt có Pháp-tịch mà học đòi sanh-hoạt theo lối Pháp như những cây rau bị nhổ lên khỏi liếp mình mà không được trồng qua liếp bên, chỉ bị vất qua liếp bên một cách bừa bãi. Bởi đó, trừ ra một số người lấy Pháp-tịch làm một lợI-khí để tranh-đấu cho dân-tộc Việt, những người Việt có Pháp-tịch bị dân Việt xem như là những kẻ đi trái luật thiên-nhiên và kể như những cái gai trong con mắt họ.
Sự thay đổi giai-cấp thì trái lại, không có gì khó khăn và phiền-phức cả. Vì những yếu-tố qui-định tánh-cách của giai-cấp rất mù mờ, vì những hàng rào pháp-lý phân chia giai-cấp không còn nữa, vì sự thuộc về giai-cấp này hay giai-cấp khác không được nhận-thức rõ rệt, người đi từ giai-cấp này sang giai-cấp khác không cần phải tuân theo luật-lệ gì hay một nghi-thức gì. Bởi đó, họ không được ai chú-ý và nhiều khi chính họ cũng không nhận thấy được rằng họ đã đổi giai-cấp nữa.
Bởi những lẽ trên này, người ta không thể bỏ dân-tộc mình một cách dễ dàng như giai-cấp, mà cũng không chạy qua chạy lại giữa dân-tộc này và dân-tộc nọ một cách dễ dàng như đối với giai-cấp.
Một người được xem là giai-cấp cần-lao mười năm trước có thể nhờ làm ăn phát-đạt mà đuợc sắp vào giai-cấp phú-hào trong lúc này. Năm năm nữa, anh ta có thể vì buôn thua bán lỗ mà lọt xuống giai-cấp tiểu-tư-sản. Trong lúc đó, nếu anh ta là người Việt-Nam thì anh ta vẫn là người Việt-Nam, chớ không thể mười năm trước, anh ta là người Pháp, năm năm sau đó là người Nhựt, hiện giờ là người Việt-Nam mà sang năm là người Trung-hoa.
Thật ra thì cũng có thể có người Việt vì quyền-lợi mỗi lúc mà lần lượt xin Pháp-tịch, Nhựt tịch trở về Việt-tịch rồi xin nhập Hoa-tịch. Nhưng dầu cho có làm như thế, họ cũng vẫn bị người ta xem là người Việt luôn luôn.
B- Người ta không tha thiết muốn đổi quốc tịch mà tha thiết muốn lên giai cấp trên.
Thêm nữa, đại-đa-số nhơn-viên của một dân-tộc không xem sự thay đổi quốc-tịch là một nguyện-vọng thiết-yếu của mình. Người Anh không phải sớm tối ước mơ được làm người Pháp, người Mỹ không phải lấy việc biến thành người Đức làm một hân-hạnh cho mình. Dự-định hành-tỉnh-hóa Nam-Việt của người Pháp – tức là làm cho dân Nam-Việt trở thành nhơn-viên của dân-tộc Pháp – đã gặp một sức đề-kháng vô-cùng mãnh-liệt trong dân-chúng Nam-Việt.
Trái lại, tất cả những người trong giai-cấp dưới đều có ý muốn lên giai-cấp trên. Người tự cho mình là giai-cấp cần-lao có thể thù ghét những người mà họ cho là thuộc giai-cấp trưởng-giả hay tư-bản. Nhưng bao giờ họ cũng nuôi cái mộng có đất, có nhà và được sống một cách sung sướng, nghĩa là bao giờ họ cũng ước mơ được trở nên những người tư-bản hay trưởng-giả mà họ thù ghét.
Điều này hiện ra rõ rệt trong cuộc tranh-đấu giai-cấp. Người vô-sản tranh-đấu không phải để cho lý-tưởng vô-sản được thắng-lợi, nghĩa là để cho người hữu-sản hóa ra vô-sản như mình. Họ tranh-đấu để được thoát khỏi tình-trạng vô-sản nghĩa là để được thành người hữu-sản. Những người chủ-trương tranh-đấu giai-cấp khôn khéo từ xưa đến giờ đã luôn luôn dùng khẩu-hiệu « chia đất » để kêu gọi quần-chúng nghèo khổ theo mình mà chiến-đấu.
Như vậy, trong cuộc chiến-tranh với người hữu-sản, người vô-sản không phải có tâm-trạng của người vô-sản trung-thành với giai-cấp mình, mà có tâm-trạng của người muốn thoát ra khỏi giai-cấp vô-sản để trở thành hữu-sản. Chúng ta có thể bảo rằng người vô-sản nào cũng có tâm-trạng của người hữu-sản trong khi chiến-đấu với người hữu-sản.
Trong những cuộc chiến-tranh giữa dân-tộc và dân-tộc thì không thế. Người của mỗi dân-tộc đều có một tâm-trạng riêng, tâm-trạng của dân-tộc mình. Người Việt-Nam tranh-đấu với người Pháp không phải để được thành người Pháp, mà để có quyền sống theo quan-niệm Việt-Nam của mình.
C- Sự phản bội dân tộc bị dư luận kết án nặng nề còn sự phản bội giai cấp không xem như một điều đáng khinh bỉ.
Sự vững chắc của nền tảng dân-tộc lại còn được bảo-đảm nhờ được sự-kiện thuộc về tâm-lý sau này nữa.
Những người bỏ dân-tộc mình để phụng-sự một dân-tộc khác luôn luôn bị đồng-bào – và luôn cả người ngoại-quốc – cho là phản-bội quê-hương và tỏ ý khinh rẻ. Dầu cho họ có tài-ba lỗI-lạc cách mấy và có lập nên công-nghiệp gì rực rỡ đến đâu, họ cũng không được trọng-vọng.
Ngay đến những kẻ theo dân-tộc khác mà không hại gì đến dân-tộc mình cũng không tránh khỏi sự chê bai của dư-luận. Lý ông Trọng xưa kia bỏ nước Việt-Nam sang Tàu để phụng-sự vua Tần chống quân Hung-nô ở miền Bắc Trung-hoa nào có làm điều gì hại đến đất tổ quê cha. Thế mà người Việt cũng tặng cho ông một câu hát mỉa mai :
Gáo vàng đi múc giếng tây,
Khôn ngoan cho lắm, tớ thầy người ta!
Đối với giai-cấp thì tình-thế khác hẳn. Những người bỏ giai-cấp mình để sang giai-cấp không hề bị buộc vào tội phản giai-cấp mình.
Người thuộc về giai-cấp cần-lao mà trở nên nhà tư-bản, rồi có một thái-độ khắc-nghiệt đối với những bạn cần-lao cũ thì có thể bị cho là người quên những bạn hàn-vi của mình. Nhưng đó là lời buộc tội tư-cách cá-nhơn của anh ta, chớ không phải buộc tội anh ta từ giai-cấp cần-lao mà bước lên giai-cấp tư-bản.
Nếu nhà tư-bản xuất thân từ giai-cấp cần-lao mà lo lắng giúp đỡ cho người khốn khó thì anh ta cũng được người ta khen ngợi như thường. Người ta lại có thể lấy sự cần-cù nhẫn-nại của anh ta trong việc kinh-doanh để làm gương mẫu.
Những người thuộc loại giai-cấp thượng-lưu hay trung-lưu mà có những tư-tưởng xã-hội và theo một chánh-đảng binh vực kẻ đói khổ chống lại sự hiếp đáp của người có quyền thế, có tiền của thì không bị ai cho là người đáng phỉ nhổ vì phản-bội giai-cấp giàu.
Chúng ta nên nhớ rằng các lý-thuyết gia xã-hội và cộng-sản tạo ra những chủ-nghĩa, những học-thuyết binh vực người vô-sản đều là những người khá giả có học, thuộc giai-cấp trung-lưu hay thượng-lưu trong xã-hội. Nhưng không ai lấy cớ họ phản-bội giai-cấp họ để công-kích họ. Những người theo học-thuyết họ thì tôn-sùng họ, vì cho rằng lý-luận họ đúng. Những người chống chọi lại họ cũng chỉ vạch rõ chỗ sai lầm của lý-luận ấy chớ không bao giờ mạt-sát họ về chỗ họ đã phản-bội giai-cấp họ.
Thật ra thì những người cộng-sản cũng có mạt-sát những người vô-sản tranh-đấu để bảo-vệ cái trật-tự đương-hữu và cho họ là bọn vô-sản lưu-manh, phản-bội quyền-lợi của giai-cấp cần-lao. Nhưng quan-niệm này, rất hợp với những người cộng-sản chủ-trương giai-cấp tranh-đấu không phải là quan-niệm của tất cả mọi người. Đại-đa-số dân-chúng trong một nước không hề xem những người vô-sản phụng-sự một chánh-phủ không phải cộng-sản là những người đáng khinh-bỉ.
Sự phản-bội dân-tộc luôn luôn bị cho là một việc bỉ-ổi, đáng ghê tởm, còn sự phản-bội giai-cấp trái lại, ít được lưu-ý và không bị cho là điều bậy. Vì đó, người ta mạnh dạn đi từ giai-cấp này sang giai-cấp khác. Còn số người có can-đảm muối mặt bỏ dân-tộc mình để phụng-sự một dân-tộc khác thì không có được bao nhiêu.
c- Dân tộc có một sức mạnh cổ truyền mà giai cấp không có.
Nhờ vững chắc và duy-trì được qua các thời-đại, dân-tộc có một sức mạnh cổ-truyền rất hùng-hậu. Lịch-sử dạy cho người trong dân-tộc biết rằng tổ-tiên họ đã sống chung nhau, tranh-đấu chung nhau chia những nỗi vui buồn, những nỗi sướng khổ với nhau. Do đó mà giữa mọi người nảy ra một tình-cảm thâm-trầm và mạnh mẽ buộc chặt họ vào nhau.
Người Việt-Nam nào cũng tự-hào rằng mình thuộc một dân-tộc bốn ngàn năm văn-hiến và cũng tự-kiêu về những trang sử oai-hùng mà tổ-tiên mình đã viết ra bằng máu. Ngay trong thời-kỳ bị đô-hộ, phần lớn người Việt-Nam cũng giữ lấy tánh tự-kiêu về nòi giống mình. Nếu có ước mơ, họ ước mơ cho dân-tộc mình thoát khỏi cảnh gông cùm và trở nên cường-thạnh, chớ không ước mơ được cởi lốt Việt-Nam để thành người dân nước khác. Thấy dân-tộc Nhựt hùng-cường, người Việt-Nam chỉ mong sao cho dân-tộc mình được bằng dân-tộc Nhựt chớ không mong được biến thành người Nhựt.
Đứng về phương diện giai-cấp thì không thế. Lúc sự phân chia đẳng-cấp còn được luật-lệ qui-định, những nhà quí-tộc còn lật gia-phổ ra để khoe rằng dòng họ mình được sang cả từ mấy trăm năm trước. Nhưng từ khi chế-độ đẳng-cấp bị hủy bỏ, những việc ấy không còn nữa. Và hiện nay, không có nhà lãnh-tụ cần-lao nào có thể lấy việc mình là miêu-duệ của tám mươi đời cần-lao để kêu gọi người lao-động ủng-hộ mình.
d.- Quyền lợi của người trong dân tộc nhiều hơn trong giai cấp.
1.- Sự xung đột quyền lợi trong dân tộc và trong giai cấp.
Chúng ta đã thấy rằng nền tảng dân-tộc đã vững bền và chắc chắn hơn nền tảng của giai-cấp nhiều, và vì đó mà ý-niệm dân-tộc càng ngày càng rõ, còn ý-niệm giai-cấp càng ngày càng lu mờ. Nhưng tại làm sao quan-niệm giai-cấp tranh-đấu lại còn có thể phát-triển và đương đầu với quan-niệm dân-tộc tranh-đấu một cách mãnh-liệt như ta thấy hiện giờ ?
Chúng ta có thể trả lời rằng sở-dĩ quan-niệm giai-cấp tranh-đấu được nảy nở là vì có một số người cho rằng sự tranh-đấu cho giai-cấp là hợp với quyền-lợi của người nhứt. Người cùng giai-cấp tự-nhiên là cùng hoàn-cảnh xã-hội với nhau. Mà người cùng chung hoàn-cảnh xã-hội với nhau thì có những quyền-lợi thiển-cận chung nhau.
Nếu ta nhớ rằng quyền-lợi là cái động-lực chánh-yếu làm cho người hợp-quần nhau lại, ta sẽ thấy tất cả sức mạnh của quan-niệm tranh-đấu cho giai-cấp. Vì lầm tưởng rằng giữa những người trong một dân-tộc có sự xung khắc quyền-lợi với nhau, còn giữa những người trong một giai-cấp không có sự xung khắc đó, nên người ta mới cho rằng giai-cấp chặt chẽ hơn dân-tộc và sự tranh-đấu cho giai-cấp hợp với quyền-lợi cá-nhơn hơn. Do đó, người ta theo chủ-trương giai-cấp tranh-đấu.
Nhưng lý-luận trên này không đúng vì thật ra trong giai-cấp cũng có những sự xung-đột quyền-lợi với nhau. Trong chương khảo về lý-thuyết xã-hội duy-vật Karl Marx, chúng ta đã thấy rằng những người cùng giai-cấp với nhau cạnh-tranh nhau một cách hết sức dữ dội.
Không những giữa những người cùng giai-cấp ở những nước khác nhau có sự cạnh-tranh nhau mà giữa những người cùng giai-cấp bên trong một nước cũng có sự cạnh-tranh nhau nữa. Tư-bản các nước tranh nhau chiếm lấy thị-trường và nguyên-liệu, tư-bản cùng một nước xung-đột nhau vì vấn-đề quyền-lợi. Những người lao-động trong một nước thường phải cạnh-tranh nhau mãnh-liệt, và lao-động các nước hùng-cường trù-phú phải chiến-đấu để ngăn-cản sự nhập-cư của lao-động các nước nhược- tiểu nghèo kém.
Như thế, thật-sự, giữa những người cùng giai-cấp cũng có sự xung-đột quyền-lợi như giữa người cùng dân-tộc. Nhưng trong hai thể-thức hợp-quần dân-tộc và giai-cấp, cái nào bảo-đảm quyền-lợi người một cách chắc chắn hơn ? Nói một cách khác, hợp-quần theo dân-tộc để tranh-đấu, người được lợi hơn hay hợp-quần theo giai-cấp để tranh-đấu người được lợi hơn.
2.- So sánh quyền lợi của người trong dân tộc và trong giai cấp.
A)-Vấn đề dân tộc tranh đấu và giai cấp tranh đấu chỉ có thể đặt ra trong phạm vi nhơn loại.
Trưóc khi trả lời câu hỏi này, chúng ta nên nhớ lại rằng vấn-đề hợp-quần theo dân-tộc hay theo giai-cấp chỉ đặt ra trong phạm-vi nhơn-loại mà thôi. Nếu trên thế-giới chỉ có một dân-tộc, hay nếu các dân-tộc sống hoàn-toàn cách biệt nhau thì sự tranh-đấu giai-cấp trong dân-tộc là điều phải làm để bảo vệ quyền-lợi cá-nhơn của mình. Sở-dĩ hiện giờ người phải cân nhắc có nên theo chủ-trương giai-cấp tranh-đấu hay không là vì trên thế-giới, có nhiều dân-tộc khác nhau liên-lạc mật-thiết nhau, và luôn luôn chực sẵn để thôn-tính hay đàn-áp nhau.
Vậy, trong sự so sánh hai thể-thức hợp-quần dân-tộc và giai-cấp để xem cái nào lợi cho người hơn, chúng ta nên hiểu chữ hợp-quần theo giai-cấp trong phạm-vi nhơn-loại, nghĩa là theo ý-nghĩa hủy bỏ sự phân-chia loài người thành dân-tộc để hợp-quần với tất cả những người cùng giai-cấp với mình trong nhơn-loại. Có như thế, vấn-đề chọn lựa sự hợp-quần theo dân-tộc hay theo giai-cấp mới có lý-do được đặt ra.
Đặt vấn-đề một cách thích-đáng rồi, ta hãy thử xem qua quyền-lợi của người trong dân-tộc và trong giai-cấp như thế nào.
B)-Trình độ sanh hoạt của cá nhơn trong những dân tộc hùng cường, nhược tiểu và nô lệ.
Nhìn qua tình-hình thế-giới, chúng ta có thể thấy ngay rằng chỉ có ở những dân-tộc độc-lập và hùng-cường, cá-nhơn mới mở mang được về mặt trí-thức, tinh-thần, đức-hạnh và mới có một trình-độ sinh-hoạt cao. Nhờ nước độc-lập hùng-cường, người mới được sung sướng và mới có quyền-lợi nhiều mà cạnh-tranh nhau về mặt giai-cấp.
Ở những dân-tộc bị đặt dưới ách đô-hộ của ngoại-tộc thì cá-nhơn mất tự-do chánh-trị. Về trí thức, tinh-thần và đức hạnh, họ bị dân thống-trị kềm hãm và chỗ tối tăm, trình-độ sanh-hoạt thì hết sức thấp kém. Người của dân-tộc nô-lệ đều bị bóc lột đến xương tủy thành ra nghèo khổ hết, không còn quyền-lợi gì mà cạnh-tranh nhau về mặt giai-cấp.
Trong những dân-tộc độc-lập mà không hùng-cường thì cá-nhơn còn được tự-do đôi chút, nhưng sự nghèo nàn cũng là cái bịnh chung của tất cả mọi người.
Do những điều trên này, chúng ta có thể bảo rằng cuộc tranh-đấu giai-cấp thường chỉ xuất-hiện ở các nước độc-lập và trù-phú mà thôi. Đối với các dân-tộc mất độc-lập hay nhược-tiểu thì tất cả mọi người đều ở chung trong một hoàn-cảnh với nhau và có thể xem như là lệ-thuộc một giai-cấp bị bóc lột như nhau, mà giai-cấp bóc lột là những dân-tộc thực-dân.
Người ta đã có bảo rằng trong những dân-tộc độc-lập, người vô-sản cũng bị bóc lột và cũng khổ sở không khác gì người của dân-tộc mất độc-lập. Vì cớ đó, người của dân-tộc mất độc-lập nên liên-minh với giai-cấp vô-sản của dân-tộc thống-trị để cổi bỏ ách nô-lệ đè nặng trên vai mình. Sự giải- phóng của dân-tộc nô-lệ vừa có lợi cho dân-tộc ấy, vừa có lợi cho giai-cấp vô-sản của nước thống-trị vì lẽ hàng-ngũ của bọn tư-bản bóc lột cả hai bên bị đánh đổ. Nhưng về vấn-đề này, chúng ta có thể đưa ra nhiều câu trả lời.
Đành rằng ở những nước độc-lập, nhiều khi vấn-đề xã-hội không giải-quyết được ổn-thỏa, và giữa mọi hạng người trong dân-tộc có một sự chênh lệch quá lớn về trình-độ sanh-hoạt. Nhưng dầu sao, một dân-tộc cũng cần được độc-lập. Sự độc-lập của dân-tộc nếu chưa phải là điều-kiện sung-mãn thì cũng là điều-kiện tất-yếu cho sự bảo-vệ quyền-lợi của cá-nhơn.
Những dân-tộc có một xã-hội ổn định, điều-hòa được quyền lợi cá-nhơn đều là những dân-tộc độc-lập. Nếu trong số những dân-tộc được độc-lập có những dân-tộc không giải-quyết được vấn dề xã-hội của mình, thì tất cả những dân-tộc nô-lệ đều bị chìm đắm trong vòng hắc-ám và không có quyền bàn đến việc cảI-cách chế-độ bất-công áp-dụng ở nước mình.
Hơn nữa, ngay trong những dân-tộc độc-lập mà không giải-quyết được vấn-đề xã-hội của mình, người bị bóc lột cũng vẫn sướng hơn người dân một nước nô-lệ.
Từ trước đến giờ, những người cực-tả thường cho rằng chế-độ thi-hành ở nước Nhựt - trước khi bị Đồng-minh đánh quỵ - là một chế-độ phát-xít khắc-nghiệt nhứt Á-đông. Theo họ, những quân-nhơn và những nhà tài-phiệt Nhựt họp lại làm một giai-cấp bóc lột bần-dân Nhựt một cách quá đáng.
Điều này có thể đúng. Nhưng chúng ta cứ thử so sánh đời sống của một người bần-dân Nhựt và một người dân Việt hay Ấn-độ vào thời-kỳ lệ thuộc ngoại-quốc thì ta sẽ thấy sự cách-biệt cao thấp như thế nào. Một đàng được hấp-thụ một nền giáo-dục có qui-củ, được săn sóc và huấn-luyện về thể-chất một cách đàng-hoàng, được đào tạo cho có một tinh-thần cường-tráng, được hướng về những thú tiêu- khiển thanh-cao và hữu-ích. Một đàng trái lại, bị xô đẩy vào vòng dốt nát, bị kìm hãm trong chỗ bịnh- tật và bạc-nhược, bị uốn nắn cho có một tinh-thần ủy-mị, bị cám dỗ vào những trò chơi trác-táng như rượu chè, á-phiện, đĩ điếm, bài bạc, làm hại cho bản-thân và cho cả giống nòi. Bất cứ về mặt nào, giáo-dục, y-tế, vệ -sanh, người dân Nhựt cũng hơn người Việt hay người Ấn-độ. Bởi đó, có dịp ra nước ngoài, người Nhựt bao giờ cũng có đủ tư-cách làm cho người ngoại-quốc nể nang hơn người Việt hay người Ấn-độ. Và mặc dầu bị dồn vào ba đảo nhỏ khô khan, đá nhiều hơn đất, người Nhựt không hề bị nạn chết đói trong thế-kỷ sau này, trong lúc Ấn-độ và Việt-Nam một nước rộng mênh mông, một nước xuất-cảng lúa gạo vào hạng nhứt nhì trên thế-giới, lại phải cung cho nạn chết đói không biết bao nhiêu sanh-mạng.
C)- Sự hùng cường và trù phú của dân tộc là một điều kiện tất yếu cho hạnh phúc cá nhơn
Như thế, sự hùng-cường trù-phú của dân-tộc là một điều-kiện làm cho cá-nhơn được sung sướng. Tuy nó gây ra sự tranh giành quyền-lợi đưa đến cuộc xung-đột giai-cấp, nhưng đến một mực cao, nó lại làm dịu bớt sự xung-đột ấy.
Nước Nhựt sở-dĩ bị xem là một nước trong đó có sự chênh lệch về giai-cấp hết sức rõ rệt vì nước ấy chưa đủ hùng-cường để làm cho đời sống của mỗi người Nhựt được hoàn-toàn tươi đẹp hết.
Tình-thế hiện-thời của dân Nhựt đã chứng tỏ rằng nếu bị dồn ép trên ba đảo Phù-tang, một số lớn người Nhựt phải bị chết đói hay là phải chịu cúi đầu khuất-phục người ngoại-quốc để xin họ tiếp-tế cho mình. Với những thuộc-địa mà nước Nhựt đã chinh-phục được trước kia, chính-phủ Nhựt đã làm cho dân Nhựt khỏi chết đói mà cũng khỏi phải chịu cái nhục ăn mày của ai. Và nếu chương-trình Đại - Đông - Á của Nhựt thực-hiện được thì chắc chắn là dân Nhựt được thảnh thơi hơn trước nhiều.
Vì đó, binh-sĩ Nhựt mới liều chết để chiến-đấu, chớ nếu sự chinh-phục thuộc-địa chỉ có lợi riêng cho Thiên-hoàng, cho các tướng cao-cấp và các ông chủ ngân-hàng, các ông chủ xí-nghiệp thì dân Nhựt có ham ra trận làm gì. Hơn nữa, nếu tướng Đông-Điều chỉ lo phụng-sự riêng cho giai-cấp thống-trị Nhựt thì dân-chúng Nhựt đâu có thương xót ông ta như là một vị anh-hùng tuẫn-quốc khi ông ta bị Tòa-án quốc-tế lên án tử-hình?
Tướng Đông Điều (Hideki Tojo, 1884 - 1948), người theo chính sách dùng chiến tranh đánh bại các nước Tây Phương để mở rộng lãnh thổ cho Nhật |
Tình hình nộI-bộ các nước Anh, Pháp, Mỹ sau trận thế-giới đại-chiến thứ nhì cũng chứng tỏ rằng ở những nước hết sức hùng-cường và trù-phú, sự chênh lệch giai-cấp tuy có, cũng không gây ra cuộc xung-đột mãnh-liệt như ở những nước yếu nghèo.
Nước Pháp sau khi được giải-phóng khỏi tay binh-đội Đức, tuy vẫn còn giữ được địa-vị cường-quốc thứ năm, rồi thứ tư trên thế-giới, nhưng sự thật, đã kiệt-quệ lắm. Những tài-sản trong nước lớp bị phá-hoại, lớp bị cướp bóc trong những năm bị chiếm-cứ, thành ra nền kinh-tế rất lung lay. Người trong nước ai cũng thiếu-thốn. Do đó, sự cạnh-tranh hết sức ráo riết, và sự cạnh-tranh này xảy ra giữa tất cả mọi người chớ không phải giữa giai-cấp tư-bản hay giai-cấp vô-sản.
Những chánh-phủ đầu tiên của Đệ-tứ Cộng-hòa Pháp đều là những chánh-phủ thiên-tả, nghĩa là có xu-hướng binh vực giai-cấp vô-sản hơn giai-cấp tư-bản. thế mà vấn-đề xã-hội vẫn không giải-quyết được và nước Pháp vẫn cứ rối ren. Đến khi đảng Cộng-sản bị loại khỏi chánh-quyền – và chánh-phủ trở nên thiên-hữu hơn – đáng lẽ sự xung-đột giai-cấp phải mãnh-liệt hơn. Nhưng sự thật, nhờ có kế- hoạch Marshall giúp đỡ, nền kinh-tế Pháp lần lần đứng dậy được, đồng phật-lăng ổn-định lại và những phong-trào đình-công của thợ-thuyền cũng tự dập tắt, mặc dầu đảng Cộng-sản Pháp vì lý-do chánh-trị còn cố gắng nhen nhúm nó lên.
Ở Anh thì tình-thế dễ chịu hơn. Nước Anh cũng bị hư hao vì nạn chiến-tranh, nhưng ít bị tàn phá hơn nước Pháp. Thêm nữa, vấn-đề thuộc địa không làm cho chánh-phủ Anh chịu nhiều phí-tổn như Pháp nên nền tài-chánh Anh được vững vàng hơn. Tuy thế, theo lời hiệu-triệu của chánh-phủ, toàn-thể dân Anh cũng phải thắt lưng buộc bụng, làm việc nhiều hơn lúc chưa có chiến-tranh mới giữ được cho trình-độ sinh-hoạt của mình không sụt xuống sâu quá.
Ở nước Mỹ là nước được xem là hùng-cường và trù-phú nhứt hoàn-cầu khi trận đại-chiến thế-giới thứ nhì chấm dứt, sự chênh lệch giai-cấp hết sức rõ rệt vì tổ-chức kinh-tế Mỹ hoàn-toàn dựa vào chế-độ tư-bản. Cứ theo lý-luận của những người chủ-trương giai-cấp tranh-đấu thì nước Mỹ phải là nước thuận-tiện nhứt cho cuộc cách-mạng vô-sản. Nhưng sự thật, ở Mỹ, đảng Cộng-sản không hề thâu-phục được một số đảng-viên đáng kể. Mà đối với những người bình-dân Mỹ, danh từ Cộng-sản đã trở thành một tiếng lăng-mạ nặng nề. Ai bảo là người Cộng-sản, họ nhứt định phải mang ra tòa-án tiểu- hình.
Như thế là vì người thợ nghèo nhứt ở Mỹ cũng có một trình-độ sanh-hoạt khá cao, ít ra cũng bằng một người trung-lưu ở các nước khác. Họ lại biết rằng, sở-dĩ họ có trình-độ sanh-hoạt đó là nhờ địa-vị ưu-hắng của dân-tộc họ trên thế-giới cho nên mặc dầu cũng tranh-đấu với người tư-bản trong nước để nâng cao thêm trình-độ sanh-hoạt của mình, họ không đi đến chỗ thù ghét người tư-bản nước mình đến nỗi hủy-phá sự thống-nhứt của dân-tộc. Họ đã bưng tai giả điếc trước những lời kêu gọi đoàn-kết của Nga vì họ hiểu rằng khi tổ-ợp với những người lao-động khác trên thế-giới để đánh đổ nền kinh-tế tư-bản Mỹ, họ chỉ đi đến kết-quả hạ thấp trình-độ sanh-hoạt của họ xuống mà thôi.
D)- Chiến tranh giữa các nước là chiến tranh của toàn thể dân chúng nước ấy chớ không phải là chiến tranh của một thiểu số tư bản hay thực dân.
Bởi lẽ sự hùng-cường của một dân-tộc thường có lợi cho toàn-thể nhơn-viên của dân-tộc đó cho nên trong những cuộc chiến-tranh giữa hai dân-tộc, tất cả mọi người đều hướng về sự thủ-thắng của dân-tộc mình, chớ không phải chỉ một giai-cấp mà thôi. Trong trường-hợp đó tự-nhiên tất cả mọi người trong một dân-tộc – trừ những kẻ phản-quốc hay vô-tổ-quốc – đều muốn cho bên mình hạ được bên kia.
Những người chủ-trương giai-cấp tranh-đấu ở nước ta từ trước đến giờ luôn luôn tuyên-bố rằng trận chiến-tranh Việt-Pháp xảy ra sau khi trận thế-giới đại-chiến thứ nhì chấm dứt là một trận chiến-tranh do một thiểu-số thực-dân gây ra. Nếu Pháp thắng được Việt, chỉ có bọn tư-bản thực-dân đó hưởng, còn giai-cấp cần-lao Pháp phải chịu gánh phí-tổn, chịu đem thân phơi ở bãi chiến-trường mà không hưởng được lợi lộc gì cho nên họ có cảm-tình với sự kháng-chiến của dân-tộc Việt và ủng-hộ người Việt triệt để.
Nhưng sự thật có phải như thế chăng ? Đành rằng nếu Pháp lập lại được chế-độc cũ ở nước Việt thì bọn thực-dân có đồn_điền, có sở cao su, có hãng buôn, có xưởng kỹ-nghệ sẽ giữ được những tài-sản đó, và sẽ được hưởng lợi nhiều nhứt và trước nhứt. Nhưng không phải vì thế mà ta có thể bảo rằng toàn-thể dân-tộc Pháp không có lợi gì mà đánh nước Việt.
Nếu nước Pháp đàn-áp được phong-trào vận-động độc-lập Việt-Nam và lập lại được trật-tự cũ trên đất nước này, thì dân Pháp có thể mua nguyên-liệu Việt với giá rẻ, bán sản-phẩm người Việt với một giá cao. Nhờ đó kỹ-nghệ Pháp được thạnh-vượng, bần-dân Pháp có nhiều công ăn việc làm. Ngạch quan-viên thuộc-địa tiêu-thụ được cho Pháp một số đông trí thức và địa-vị ưu-thắng của Pháp giúp cho nhiều người Pháp dễ dàng lập-nghiệp, làm giàu ở nước Việt. Từ xưa đến nay đất thuộc-địa vẫn là nơi cho công-dân mẫu-quốc hốt bạc.
Ta có thể bảo rằng nếu nước Việt còn là thuộc-địa Pháp thì người dân Pháp nào đến đất Việt cũng ở vào cửa trên. Một anh hiến-binh hạng nhì ở Pháp chỉ biết đọc, biết viết và ở vào ngạch công- chức hạ-cấp, sang đất Việt đã có thể giữ chức cảnh-sát-trưởng một tỉnh oai-quyền và lương bổng cao hơn một viên chủ quận, nghĩa là một công-chức cao-cấp người Việt, học-lực và tài-năng hơn anh ta gấp bội. Những điều trên đây chứng tỏ rằng toàn-thể dân-tộc Pháp có lợi mà đô-hộ nước Việt. Vì đó, toàn-thể dân-tộc Pháp đều lo chiến-đấu với dân Việt chớ không phải riêng một giai-cấp tư-bản thực-dân mà thôi.
Chúng ta nên nhớ rằng đại-đa-số quân-sĩ Pháp sang tác-chiến ở Đông-dương đều là những người xuất-thân trong hạng bần-dân chớ không phải là hạng con ông cháu cha. Nhưng trước đây, người Việt nào dại dột đem việc giai-cấp ra để thuyết họ và rủ họ vào bưng biền đều bị họ đưa về nộp cho Phòng nhì để cho người Việt có dịp suy-nghiệm về ý-nghĩa thâm-trầm của tình thân-ái giữa người vô-sản các nước, và nhứt là vô-sản Pháp và vô-sản Việt.
Những người theo chủ-trương giai-cấp tranh-đấu có thể viện cớ rằng quân-sĩ Pháp ở nước Việt là những người vô-sản lưu-manh hay vô-sản chưa giác-ngộ để biện-chánh cho việc họ hăng hái chiến-đấu với người Việt.
Nhưng còn thái-độ của những đảng Xã-hội và Cộng-sản Pháp là những đảng của người « vô-sản giác-ngộ Pháp » là những đảng mà người theo chủ-trương giai-cấp tranh-đấu ở nước Việt cho là thành-thật binh vực dân-tộc Việt? Chúng ta đã thấy họ tán-thành việc gửi binh sang tái-chiếm Đông- dương trong một chính-phủ lâm-thời do Tướng De Gaulle chủ-tọa sau khi nước Pháp được giảI-phóng. Chúng ta đã thấy họ đồng lòng ký tên vào bản quyết-định hạ lịnh cho quân-đội viễn-chinh Pháp ở Đông-dương đánh nước Việt ngày 19 tháng chạp dương-lịch năm 1946.
Chúng ta hãy thử hỏi : « Nếu quyền-lợi Pháp ở Việt-Nam chỉ là quyền-lợi tư-bản thực-dân thì tại sao những lãnh-tụ đảng Xã-hội và đảng Cộng-sản Pháp không bao giờ dám chủ-trương giao hết tài- sản của Pháp ở Việt-Nam lại cho quốc-dân Việt-Nam và để cho nước Việt-Nam độc-lập hoàn-toàn ngoài Liên-hiệp-Pháp? ». Họ có thể cãi rằng trong thâm-tâm, họ vẫn chủ-trương như trên này, nhưng họ không dám công-khai tuyên-bố chủ-trương đó ra vì sợ quần-chúng Pháp bất-bình. Nhưng như thế, họ lại thú nhận rằng quyền-lợi Pháp ở Việt-Nam là quyền-lợi chung của quần-chúng Pháp chớ không phải là quyền-lợi riêng của một thiểu-số tư-bản thực-dân như lời họ tuyên-truyền.
Về cái quần-chúng Pháp này, chúng ta có thể nhận thấy rằng nó cung-cấp người và tiền cho quân-đội Pháp ở Viễn-đông, nghĩa là làm hại dân Việt-Nam chớ không ích gì cho nhóm Việt-Nam cả. Dưới sự điều-khiển của đảng Cộng-sản Pháp, một nhóm người có mở một vài cuộc biểu-tình leo heo để hô-hào chấm dứt chiến-tranh ở Việt-Nam và đánh điện khuyến-khích chánh-phủ Hồ Chí Minh. Nhưng việc đó chỉ có lợi cho Việt-Nam cũng như người Việt biểu-tình phản-đối Franco có lợi cho những người dân-chủ Tây Ban Nha lưu-vong ở Pháp vậy. Quần-chúng cần-lao Pháp chỉ cần vận-động mạnh để ngưng chiến khi họ đã cảm thấy rằng Pháp không thể nắm phần thắng-lợi ở Đông-dương. Điều này chỉ tỏ rằng họ chỉ nghĩ đến quyền-lợi họ chớ không hề nghĩ đến dân-tộc Việt-Nam.
Chiến tranh biên giới 1979 là chiến tranh giữa hai nước Việt Nam, Trung Quốc hay là chiến tranh giữa hai giai cấp công nhân của hai nước? Sao giai cấp công nhân Việt - Hoa không đoàn kết vì tình vô sản quốc tế mà lại đi đánh nhau?
Đ)- Sự hợp quần trong giai cấp chỉ dựa vào quyền lợi nên không vững chắc bằng sự hợp quần trong dân tộc.
Sau cùng, chúng ta lại có thể thấy điều này nữa. Trong sự hợp-quần theo giai-cấp, người ta chỉ dựa vào quyền-lợi và vào một tình-cảm sanh ra vì chung hoàn-cảnh với nhau. Một khi quyền-lợi không còn giống nhau, sự thương nhau vì đồng bịnh không còn nữa và sự hợp-quần phải chấm dứt.
Chúng ta có thể thấy rằng quyền-lợi người không phải là bất-biến và nền tảng giai-cấp không vững chắc vì người ta có thể đi từ giai-cấp này đến giai-cấp nọ một cách rất thường. Như thế, dựa vào giai-cấp để tranh-đấu, tức là dựa vào một nền tảng bấp-bênh, không vững chắc, và tranh-đấu cho giai-cấp là tranh-đấu cho những quyền-lợi thiển-cận nhứt thời.
Đối với dân-tộc thì không thế. Ngoài yếu-tố quyền-lợi, dân-chúng còn dựa vào nền tảng huyết-thống, vào những mối liên-lạc tinh-thần và tình-cảm rất mạnh mẽ và thâm-trầm. Nhờ đó, dân-tộc rất bền vững và người ta không thay đổi dân-tộc được một cách dễ dàng. Như thế, dựa vào dân-tộc để tranh-đấu, tức là dựa vào một nền tảng vững chắc, cố-định, và tranh-đấu cho dân-tộc tức là tranh-đấu cho những quyền-lợi sâu xa, lâu dài của mình.
E)- Sự hợp quần trong dân tộc có lợi cho ngườ hơn sự hợp quần trong giai cấp.
Dân-tộc có độc-lập và hùng-cường thì cá-nhơn mới có thể sống còn một cách sung sướng và mới có thể giải-quyết được những vấn-đề xã-hội của nước mình. Trong cuộc xung-đột giữa hai dân-tộc, quyền lợi của tất cả mọi người trong mỗi bên đều chung với nhau. Nền tảng dân-tộc lại vững chắc hơn nền tảng của giai-cấp và tranh-đấu cho dân-tộc, người ta bảo-vệ những quyền-lợi sâu xa bền chặt hơn quyền-lợi giai-cấp. Gây ra cuộc tranh-đấu giai-cấp trong dân-tộc, có khi người cũng bảo-vệ được những quyền-lợi thiển-cận, cấpèthời của mình, nhưng thường người ta làm cho dân-tộc phân chia và yếu sức đi, thành ra phải mất nền độc-lập. Mà nền độc-lập một khi đã mất thì mọi người đều bị bóc lột một cách tàn-nhẫn và vấn-đề giai-cấp của dân-tộc bị giải-quyết theo một lối có hại cho tất cả mọi người, là tất cả mọi người đều bị thành nô-lệ cùng-đinh hết.
Bởi những lý-do trên này, ta có thể quả-quyết rằng quyền-lợi cá-nhơn của người trong dân-tộc nhiều hơn là trong giai-cấp. Và tranh-đấu cho dân-tộc, người được lợi hơn là tranh-đấu cho giai-cấp.
3.- Phạm vi hợp quần lợi nhứt cho người.
Mục-đích hoạt-động của người từ trước đến nay và mãi về sau là mưu-đồ sinh-tồn cho mình. Muốn sinh-tồn, người phải tranh-đấu, mà muốn có nhiều điều-kiện thắng-lợi trong sự tranh-đấu của mình, người phải hợp-quần nhau lại. Sự thống-nhứt toàn-thể nhơn-loại dưới một quyền quản-trị chung không thể thực-hiện được vì nhiều nguyên-nhơn làm cho người chia rẽ nhau. Các nhà đạo-đức đã đưa ra những biện pháp để chấm dứt sự chia rẽ ấy. Nhưng cho đến ngày nay, những biện pháp này vẫn không mang lại những kết-quả mỹ-mãn.
Không thương yêu nhau hết được, không diệt được lòng tham-lam và tánh vị-kỷ của mình, không hạn-chế được nhơn-dục, không tăng-gia số vật-liệu sản-xuất được, cũng không thể giảm bớt số người tiêu-thụ bằng cách hạn-chế sanh-dục, loài người chỉ còn một cách là tranh-đấu lẫn nhau để sinh-tồn.
Như thế những phương-pháp của các nhà chánh-khách và học-giả đưa ra để chấm dứt sự chia rẽ giữa loài người đều thất-bại cả. Thế-giới đại-đồng luôn luôn chỉ là một ảo-mộng không bao giờ thực-hiện được. Những bản-năng của người và những điều-kiện sinh-tồn, của người làm cho người không thể nào tổ-chức được nhơn-loại thành một khối duy-nhứt. Vì đó, con người chỉ có thể hợp-quần nhau một cách chặt chẽ trong phạm-vi một đoàn-thể trung gian.
Trong tất cả những đoàn-thể trung-gian tạo ra được, chỉ có quốc-gia là vững chắc nhứt. Mà trong số những quốc-gia đã xuất-hiện trên thế-giới, những quốc-gia chỉ xây dựng trên một tôn-giáo, trên một hệ-thống tư-tưởng, trên quyền-oai một dòng họ thường không có tánh-cách vĩnh-cửu, vì người có thể đổi tôn-giáo, đổi ý-tưởng và quyền-oai có thể bị sụp đổ.
Vả lại, với sự tiến-bộ của người, vai tuồng của tôn-giáo và uy tín cá-nhơn lần lần lu mờ đi, những hệ-thống tư-tưởng không phù-hợp với thực-tế cũng khó gây được tín-nhiệm của người. Một mặt khác, chủ-trương hủy bỏ ý-niệm quốc-gia lấy ý-niệm giai-cấp thay vào, dầu có thực-hiện được, cũng rất có hại cho người.
Xét lịch-sử một cách khách-quan, ta thấy rằng những quốc-gia đặt nền tảng trên dân-tộc là những quốc-gia bền vững nhứt. Như thế là vì dân-tộc nhờ yếu-tố huyết-thống mà có tánh-cách vĩnh-cửu, lại bao gồm thêm nhiều yếu-tố phụ-thuộc gây được sự đồng-nhứt cho đoàn-thể như ngôn-ngữ, phong-tục, tôn-giáo, cách-thức sanh-hoạt v.v… Đã vậy, nó còn nhờ một yếu-tố tinh-thần là lịch-sử làm cho sự đoàn-kết giữa mọi người được bền chặt thêm.
Vì lẽ những quốc-gia dựa vào dân-tộc là những quốc-gia vững chắc, các quốc-gia được thành-lập từ trước đến nay đều có xu-hướng nhào nắn quốc-dân mình cho thành dân-tộc, mà các dân-tộc cũng có xu-hướng tự lập thành quốc-gia. Như thế, ta có thể bảo rằng đoàn-thể hợp-quần lợi nhứt cho người là dân-tộc, hay quốc-gia nếu xét về pháp-lý.
Sự hợp-quần trong phạm-vi dân-tộc giúp cho người giải-quyết được vấn-đề cung-cầu chênh lệch vì những vật-liệu sản-xuất được không đủ cung-cấp cho toàn-thể nhơn-loại. Tự-nhiên những dân-tộc muốn sinh-tồn được sung-mãn phải tranh-dấu lẫn nhau để giành lấy những đất đai vật-liệu mình cần dùng.
Sự tranh-đấu này có thể đưa đến những kết-quả khốc-liệt : người Hán đã tiêu diệt người Tam Miêu, người Việt-Nam đã làm cho người Chiêm-thành gần tuyệt-chủng, người Tây-ban-nha và người Mỹ đã tiêu-trừ phần lớn dân da đỏ. Nhưng nó cũng có thể dịu hơn: những cường-quốc của thế-kỷ 20, ngoài việc chiến-đấu nhau ở bãi chiến-trường, còn cạnh-tranh nhau về mặt kỹ-nghệ và thương-mại, và nhiều cuộc giành giựt thị-trường của họ nếu có làm đổ máu cũng không đi đến những kết-quả tàn-khốc quá.
Sự tranh-đấu giữa các dân-tộc thường khêu gợi ý-thức chủng-loại của người và giúp người phát-tiết tánh vị-kỷ cùng lòng ghét của mình ra ngoài. Do đó, nó làm cho người bên trong quốc-gia cố-kết nhau lại để đối-phó với người ngoại-quốc và không những chấm dứt những cuộc xung-đột nội-bộ, họ còn có thể hy-sinh sự sinh-tồn cá-nhơn của mình cho sự sinh-tồn của đoàn-thể nữa. Lịch-sử thế-giới đã cho ta nhiều gương về vấn-đề này.
Khi tổ-quốc bị nạn ngoạI-xâm, người ta thường bỏ những hiềm-thù cá-nhơn để cùng mưu-toan cứu nước. Hai ông Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải đã gác qua một bên sự hờn ghét nhau và cộng-tác nhau một cách chặt chẽ để đối-phó lại giặc Nguyên. Năm 1914, lúc quân Đức xâm-nhập biên- thùy Pháp, những chánh-đảng Pháp đã chấm dứt mọi cuộc tranh-chấp với nhau và lập nên mặt trận thống-nhứt thiêng-liêng để tổ-chức sự chiến-đấu chống Đức.
Lịch-sử thành-lập quốc-gia Đức cũng giúp chúng ta nhiều bằng chứng chỉ tỏ rằng trong sự thống-nhứt một dân-tộc, lòng oán ghét dị-tộc và sự cần dùng chiến-đấu với họ đóng một vai tuồng rất quan-trọng. Nước Đức trước kia phân ra làm nhiều tiểu-bang có những qui-chế chánh-trị khác nhau. Người Đức cùng huyết-thống, cùng ngôn-ngữ và cùng văn-hóa với nhau, nhưng lại không hợp-nhứt với nhau được vì dân-chúng các tiểu-bang Đức có những tánh-tình khác nhau và không hoà-thuận với nhau. Phong-trào cảI-lương tôn-giáo ở Âu-châu lại càng làm cho dân Đức phân rẽ nhau vì người Đức phương Bắc theo Thiên-chúa-giáo cảI-lương, trong khi người Đức phương Nam trung-thành với Thiên-chúa-giáo La-mã. Sự phân rẽ này làm cho dân Đức suy yếu và kém thế hơn các dân-tộc Pháp, Anh, mặc dầu người Đức không thua người Pháp, người Anh về năng-lực.
Ý-thức về sự suy kém của mình đưa ra những nhà ái-quốc Đức chủ-trương thống-nhứt. Một chánh khách Đức, ông Bismarck ra phù-tá vua nước Phổ và tổ-chức nước Phổ thành một nước hùng-cường, có một quân-đội dõng-mãnh. Nhưng ông hiểu rằng nếu dùng võ-lực mà chinh-phục các tiểu- bang Đức khác, ông sẽ vấp phải sự đề-kháng của họ và sự can-thiệp của các cường-quốc Âu-châu. Trong trường-hợp đó, sự thống-nhứt dân-tộc Đức rất khó thành, mà dẫu có thành, nó cũng không duy-trì được. Vì thế Bismarck đã theo một chánh-sách khác.
Trước hết, ông tìm cách loại ảnh-hưởng nước Áo ra khỏi nước Đức. Người Áo cùng một nòi giống với người Đức, nhưng đế-quốc Áo gồm nhiều chủng-tộc khác, và hoàng-gia Áo chỉ muốn chia rẽ dân Đức để dễ trị họ. Sau một trận chiến-tranh Phổ Áo kết-thúc bằng sự thắng-lợi của quân-đội Phổ ở Sadowa năm 1866, nước Áo bị loại ra khỏi trường chánh-trị Đức. Tuy thế, các tiểu-bang Đức vẫn chưa hợp-nhứt nhau được.
Muốn hoàn-thành sự thống-nhứt dân Đức, Bismarck khêu gợi lòng thù ghét dân Pháp của người Đức. Người Pháp từ trước vẫn là kẻ thế-thù của người Đức. Chánh-sách các nhà vua Pháp luôn luôn nhắm vào mục-đích chia rẽ người Đức, và trong thời-kỳ Đệ Nhứt Đế-chế, người Pháp đã mang binh xâm lấn nước Đức, giết hại người Đức rất nhiều, Bismarck hướng sự tuyên-truyền của mình vào chỗ vạch rõ cho dân Đức thấy rằng dân-tộc Pháp là mối nguy cho sự sống còn của người Đức.
Khi nhơn-tâm đã thuận, Bismarck lại khôn khéo khiêu khích làm cho nước Pháp tuyên-chiến với nước Phổ năm 1870. Trong trận chiến-tranh Pháp Phổ này, các tiểu-bang Đức đều đứng sau lưng nước Phổ, và năm 1871, khi nước Phổ hoàn-toàn thắng Pháp, vua Phổ được các vị chúa những tiểu- bang Đức tôn lên làm hoàng-đế nước Đức. Từ đó, dân-tộc Đức họp-nhứt nhau lại, và năm 1918, khi trận chiến-tranh thế-giới thứ nhứt kết-liễu, người Pháp đã thất-bại trong dự-định phân rẽ người Đức.
Như thế, chánh-sách của Bismarck hết sức công-hiệu. Nhờ phát-tiết lòng ghét của mình ra nơi nước Áo và nước Pháp, dân Đức đã bỏ những hiềm thù riêng của mình mà đoàn-kết lại với nhau. Điều này chỉ tỏ rằng sự tranh-đấu cho dân-tộc có thể chấm dứt được sự xung-đột chia rẽ bên trong vì những điểm bất-đồng giữa người ở các địa-phương khác nhau.
Ngoài ra, lịch-sử thế-giới đã cho ta thấy nhiều gương hy-sanh dõng-cảm cho quốc-gia dân-tộc. Sự hy-sanh này không phải chỉ xuất-hiện khi người tan trong đám đông và bị sự chi-phối mạnh mẽ của bản-năng sinh-tồn chủng-loại. Nó xuất-hiện ngay nơi những người cô-lập, nghĩa là bị đặt dưới ảnh-hưởng của bản-năng sinh-tồn cá-nhơn có khuynh-hướng đưa người đến sự vị-kỷ. Những viên tướng từ- khước bả vinh-hoa của giặc và cam chịu chết để giữ vẹn lòng trung-nghĩa, những nhà cách-mạng trải trăm ngàn nguy-hiểm để hoạt-động khôi-phục giang-sơn, những chiến-sĩ tình-nguyện liều mình hủy phá cứ-điểm địch thật ra không hiếm trong lịch-sử các dân-tộc. Những người này đã tự-ý hủy bỏ đời sống để phụng-sự dân-tộc họ.
Sự hy-sanh nầy có thể có nhiều lý-do. Người có thể hy-sinh với ý-định làm cho dân-tộc mình hùng-cường, ngự -trị lên dân-tộc khác. Trong trường-hợp này, người phát-tiết sự vị-kỷ của mình ra nơi dân-tộc khác để có sự vị-tha đối với dân-tộc mình.
Người cũng có thể hy-sanh để bảo -vệ dân-tộc mình vì nhận thức rằng bảo-vệ dân-tộc là bảo-vệ một hình-thức sinh-tồn mình yêu quí và tôn trọng, một hình-thức sinh-tồn lý-tưởng của mình.
Như ta đã thấy, ngoài sự tương-đồng về thể-chất, người trong dân-tộc còn có thể đồng ngôn-ngữ, đồng tôn-giáo, phong-tục, đồng cách thức sanh-hoạt, đồng lịch-sử với nhau. Trong dân-tộc, người sống giữa một bầu không-khí quen thuộc làm cho người khoan-khoái, và giữa những bửu-vật người ưa thích. Dân-tộc bị uy-hiếp hay chế-ngự thì bầu không-khí quen thuộc kia có thể thay đổi, những bửu-vật kia có thể bị phá hủy. Như vậy, sự suy kém hay tan vỡ của dân-tộc có một ảnh-hưởng tai hại đến sự sinh-tồn của cá-nhơn và khi bảo-vệ dân-tộc người đã bảo-vệ sự sinh-tồn cá-nhơn của mình.
Vì lẽ đối với một số người, thà chết mà còn dễ chịu hơn là sống một cách cực nhục theo một thể-thức mình không thích, người sẵn sàng hy-sanh tánh-mạng cho tổ-quốc. Trong trường-hợp này sự hy-sanh của người không có tánh-cách vị dân-tộc bằng trường-hợp trên.
Nhưng dầu hy sanh vì lý-do gì cũng vậy, người cũng được đồng-bào, và có khi đến cả kẻ địch kính nể, trọng-vọng. Những chiến-sĩ của dân-tộc thường lấy họ làm gương và điều này khiến cho sự tranh-đấu cho dân-tộc càng có thêm nhiều điều-kiện tinh-thần để lôi cuốn quần-chúng theo.
Nhờ quyền-lợi dân-tộc nhiều khi phù-hợp với sự sinh-tồn cá-nhơn, nhờ phát-tiết được lòng ghét và sự vị-kỷ của mình ra dân-tộc khác, người trong một dân-tộc có thể cố-kết nhau lại và hy-sanh cho tổ-quốc mình. Người có thể gác qua một bên những sự thù-hiềm, những sự bất-hòa hay bất-đồng nhỏ nhặt để cùng lo cho tổ-quốc mình. Như thế, hợp-quần trong phạm-vi dân-tộc, người có thể giải-quyết được vấn-đề chia rẽ vì bản-năng sinh-tồn và ý-thức đồng-loại.
Tự nhiên là trong mỗi dân-tộc đều có những phần-tử đặt quyền-lợi cá-nhơn, gia-đình, đảng phái hay tôn-giáo lên trên quyền-lợi dân-tộc. Nhưng những phần-tử này thường bị dư-luận chê bai chỉ trích chớ không được ngợi khen như những anh-hùng dân-tộc. Vả lại, riêng việc người trong dân-tộc có thể cố-kết nhau lại một cách chặt chẽ và việc nhiều người trong dân-tộc vui lòng hy-sanh cho nó cũng đủ chứng tỏ rằng dân-tộc là đoàn-thể hợp-quần có nhiều điều-kiện hơn hết để đứng vững được lâu dài.
Thêm nữa, trong tất cả các đoàn-thể hợp-quần của người, không có đoàn-thể nào gồm nhiều quyền-lợi vật-chất và tinh-thần vĩnh-cửu của người cho bằng dân-tộc. Những điều trên này cho phép chúng ta kết-luận rằng dân-tộc là đoàn-thể hợp-quần có lợi nhứt cho người. Chính vì thế mà người nào cũng có một ý-niệm rõ rệt về dân-tộc, và dân-tộc-tánh của người là một yếu-tố quan-trọng vào bực nhứt mà không nhà chánh-trị khôn-khéo nào dám bỏ qua.
Mục-đích hoạt-động của người từ trước đến nay và mãi về sau là mưu-đồ sinh-tồn cho mình. Muốn sinh-tồn, người phải tranh-đấu, mà muốn có nhiều điều-kiện thắng-lợi trong sự tranh-đấu của mình, người phải hợp-quần nhau lại. Sự thống-nhứt toàn-thể nhơn-loại dưới một quyền quản-trị chung không thể thực-hiện được vì nhiều nguyên-nhơn làm cho người chia rẽ nhau. Các nhà đạo-đức đã đưa ra những biện pháp để chấm dứt sự chia rẽ ấy. Nhưng cho đến ngày nay, những biện pháp này vẫn không mang lại những kết-quả mỹ-mãn.
Không thương yêu nhau hết được, không diệt được lòng tham-lam và tánh vị-kỷ của mình, không hạn-chế được nhơn-dục, không tăng-gia số vật-liệu sản-xuất được, cũng không thể giảm bớt số người tiêu-thụ bằng cách hạn-chế sanh-dục, loài người chỉ còn một cách là tranh-đấu lẫn nhau để sinh-tồn.
Như thế những phương-pháp của các nhà chánh-khách và học-giả đưa ra để chấm dứt sự chia rẽ giữa loài người đều thất-bại cả. Thế-giới đại-đồng luôn luôn chỉ là một ảo-mộng không bao giờ thực-hiện được. Những bản-năng của người và những điều-kiện sinh-tồn, của người làm cho người không thể nào tổ-chức được nhơn-loại thành một khối duy-nhứt. Vì đó, con người chỉ có thể hợp-quần nhau một cách chặt chẽ trong phạm-vi một đoàn-thể trung gian.
Trong tất cả những đoàn-thể trung-gian tạo ra được, chỉ có quốc-gia là vững chắc nhứt. Mà trong số những quốc-gia đã xuất-hiện trên thế-giới, những quốc-gia chỉ xây dựng trên một tôn-giáo, trên một hệ-thống tư-tưởng, trên quyền-oai một dòng họ thường không có tánh-cách vĩnh-cửu, vì người có thể đổi tôn-giáo, đổi ý-tưởng và quyền-oai có thể bị sụp đổ.
Vả lại, với sự tiến-bộ của người, vai tuồng của tôn-giáo và uy tín cá-nhơn lần lần lu mờ đi, những hệ-thống tư-tưởng không phù-hợp với thực-tế cũng khó gây được tín-nhiệm của người. Một mặt khác, chủ-trương hủy bỏ ý-niệm quốc-gia lấy ý-niệm giai-cấp thay vào, dầu có thực-hiện được, cũng rất có hại cho người.
Xét lịch-sử một cách khách-quan, ta thấy rằng những quốc-gia đặt nền tảng trên dân-tộc là những quốc-gia bền vững nhứt. Như thế là vì dân-tộc nhờ yếu-tố huyết-thống mà có tánh-cách vĩnh-cửu, lại bao gồm thêm nhiều yếu-tố phụ-thuộc gây được sự đồng-nhứt cho đoàn-thể như ngôn-ngữ, phong-tục, tôn-giáo, cách-thức sanh-hoạt v.v… Đã vậy, nó còn nhờ một yếu-tố tinh-thần là lịch-sử làm cho sự đoàn-kết giữa mọi người được bền chặt thêm.
Vì lẽ những quốc-gia dựa vào dân-tộc là những quốc-gia vững chắc, các quốc-gia được thành-lập từ trước đến nay đều có xu-hướng nhào nắn quốc-dân mình cho thành dân-tộc, mà các dân-tộc cũng có xu-hướng tự lập thành quốc-gia. Như thế, ta có thể bảo rằng đoàn-thể hợp-quần lợi nhứt cho người là dân-tộc, hay quốc-gia nếu xét về pháp-lý.
Sự hợp-quần trong phạm-vi dân-tộc giúp cho người giải-quyết được vấn-đề cung-cầu chênh lệch vì những vật-liệu sản-xuất được không đủ cung-cấp cho toàn-thể nhơn-loại. Tự-nhiên những dân-tộc muốn sinh-tồn được sung-mãn phải tranh-dấu lẫn nhau để giành lấy những đất đai vật-liệu mình cần dùng.
Sự tranh-đấu này có thể đưa đến những kết-quả khốc-liệt : người Hán đã tiêu diệt người Tam Miêu, người Việt-Nam đã làm cho người Chiêm-thành gần tuyệt-chủng, người Tây-ban-nha và người Mỹ đã tiêu-trừ phần lớn dân da đỏ. Nhưng nó cũng có thể dịu hơn: những cường-quốc của thế-kỷ 20, ngoài việc chiến-đấu nhau ở bãi chiến-trường, còn cạnh-tranh nhau về mặt kỹ-nghệ và thương-mại, và nhiều cuộc giành giựt thị-trường của họ nếu có làm đổ máu cũng không đi đến những kết-quả tàn-khốc quá.
Sự tranh-đấu giữa các dân-tộc thường khêu gợi ý-thức chủng-loại của người và giúp người phát-tiết tánh vị-kỷ cùng lòng ghét của mình ra ngoài. Do đó, nó làm cho người bên trong quốc-gia cố-kết nhau lại để đối-phó với người ngoại-quốc và không những chấm dứt những cuộc xung-đột nội-bộ, họ còn có thể hy-sinh sự sinh-tồn cá-nhơn của mình cho sự sinh-tồn của đoàn-thể nữa. Lịch-sử thế-giới đã cho ta nhiều gương về vấn-đề này.
Khi tổ-quốc bị nạn ngoạI-xâm, người ta thường bỏ những hiềm-thù cá-nhơn để cùng mưu-toan cứu nước. Hai ông Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải đã gác qua một bên sự hờn ghét nhau và cộng-tác nhau một cách chặt chẽ để đối-phó lại giặc Nguyên. Năm 1914, lúc quân Đức xâm-nhập biên- thùy Pháp, những chánh-đảng Pháp đã chấm dứt mọi cuộc tranh-chấp với nhau và lập nên mặt trận thống-nhứt thiêng-liêng để tổ-chức sự chiến-đấu chống Đức.
Lịch-sử thành-lập quốc-gia Đức cũng giúp chúng ta nhiều bằng chứng chỉ tỏ rằng trong sự thống-nhứt một dân-tộc, lòng oán ghét dị-tộc và sự cần dùng chiến-đấu với họ đóng một vai tuồng rất quan-trọng. Nước Đức trước kia phân ra làm nhiều tiểu-bang có những qui-chế chánh-trị khác nhau. Người Đức cùng huyết-thống, cùng ngôn-ngữ và cùng văn-hóa với nhau, nhưng lại không hợp-nhứt với nhau được vì dân-chúng các tiểu-bang Đức có những tánh-tình khác nhau và không hoà-thuận với nhau. Phong-trào cảI-lương tôn-giáo ở Âu-châu lại càng làm cho dân Đức phân rẽ nhau vì người Đức phương Bắc theo Thiên-chúa-giáo cảI-lương, trong khi người Đức phương Nam trung-thành với Thiên-chúa-giáo La-mã. Sự phân rẽ này làm cho dân Đức suy yếu và kém thế hơn các dân-tộc Pháp, Anh, mặc dầu người Đức không thua người Pháp, người Anh về năng-lực.
Ý-thức về sự suy kém của mình đưa ra những nhà ái-quốc Đức chủ-trương thống-nhứt. Một chánh khách Đức, ông Bismarck ra phù-tá vua nước Phổ và tổ-chức nước Phổ thành một nước hùng-cường, có một quân-đội dõng-mãnh. Nhưng ông hiểu rằng nếu dùng võ-lực mà chinh-phục các tiểu- bang Đức khác, ông sẽ vấp phải sự đề-kháng của họ và sự can-thiệp của các cường-quốc Âu-châu. Trong trường-hợp đó, sự thống-nhứt dân-tộc Đức rất khó thành, mà dẫu có thành, nó cũng không duy-trì được. Vì thế Bismarck đã theo một chánh-sách khác.
Otto von Bismarck (1862 - 1890)
Trước hết, ông tìm cách loại ảnh-hưởng nước Áo ra khỏi nước Đức. Người Áo cùng một nòi giống với người Đức, nhưng đế-quốc Áo gồm nhiều chủng-tộc khác, và hoàng-gia Áo chỉ muốn chia rẽ dân Đức để dễ trị họ. Sau một trận chiến-tranh Phổ Áo kết-thúc bằng sự thắng-lợi của quân-đội Phổ ở Sadowa năm 1866, nước Áo bị loại ra khỏi trường chánh-trị Đức. Tuy thế, các tiểu-bang Đức vẫn chưa hợp-nhứt nhau được.
Muốn hoàn-thành sự thống-nhứt dân Đức, Bismarck khêu gợi lòng thù ghét dân Pháp của người Đức. Người Pháp từ trước vẫn là kẻ thế-thù của người Đức. Chánh-sách các nhà vua Pháp luôn luôn nhắm vào mục-đích chia rẽ người Đức, và trong thời-kỳ Đệ Nhứt Đế-chế, người Pháp đã mang binh xâm lấn nước Đức, giết hại người Đức rất nhiều, Bismarck hướng sự tuyên-truyền của mình vào chỗ vạch rõ cho dân Đức thấy rằng dân-tộc Pháp là mối nguy cho sự sống còn của người Đức.
Khi nhơn-tâm đã thuận, Bismarck lại khôn khéo khiêu khích làm cho nước Pháp tuyên-chiến với nước Phổ năm 1870. Trong trận chiến-tranh Pháp Phổ này, các tiểu-bang Đức đều đứng sau lưng nước Phổ, và năm 1871, khi nước Phổ hoàn-toàn thắng Pháp, vua Phổ được các vị chúa những tiểu- bang Đức tôn lên làm hoàng-đế nước Đức. Từ đó, dân-tộc Đức họp-nhứt nhau lại, và năm 1918, khi trận chiến-tranh thế-giới thứ nhứt kết-liễu, người Pháp đã thất-bại trong dự-định phân rẽ người Đức.
Như thế, chánh-sách của Bismarck hết sức công-hiệu. Nhờ phát-tiết lòng ghét của mình ra nơi nước Áo và nước Pháp, dân Đức đã bỏ những hiềm thù riêng của mình mà đoàn-kết lại với nhau. Điều này chỉ tỏ rằng sự tranh-đấu cho dân-tộc có thể chấm dứt được sự xung-đột chia rẽ bên trong vì những điểm bất-đồng giữa người ở các địa-phương khác nhau.
Ngoài ra, lịch-sử thế-giới đã cho ta thấy nhiều gương hy-sanh dõng-cảm cho quốc-gia dân-tộc. Sự hy-sanh này không phải chỉ xuất-hiện khi người tan trong đám đông và bị sự chi-phối mạnh mẽ của bản-năng sinh-tồn chủng-loại. Nó xuất-hiện ngay nơi những người cô-lập, nghĩa là bị đặt dưới ảnh-hưởng của bản-năng sinh-tồn cá-nhơn có khuynh-hướng đưa người đến sự vị-kỷ. Những viên tướng từ- khước bả vinh-hoa của giặc và cam chịu chết để giữ vẹn lòng trung-nghĩa, những nhà cách-mạng trải trăm ngàn nguy-hiểm để hoạt-động khôi-phục giang-sơn, những chiến-sĩ tình-nguyện liều mình hủy phá cứ-điểm địch thật ra không hiếm trong lịch-sử các dân-tộc. Những người này đã tự-ý hủy bỏ đời sống để phụng-sự dân-tộc họ.
Sự hy-sanh nầy có thể có nhiều lý-do. Người có thể hy-sinh với ý-định làm cho dân-tộc mình hùng-cường, ngự -trị lên dân-tộc khác. Trong trường-hợp này, người phát-tiết sự vị-kỷ của mình ra nơi dân-tộc khác để có sự vị-tha đối với dân-tộc mình.
Người cũng có thể hy-sanh để bảo -vệ dân-tộc mình vì nhận thức rằng bảo-vệ dân-tộc là bảo-vệ một hình-thức sinh-tồn mình yêu quí và tôn trọng, một hình-thức sinh-tồn lý-tưởng của mình.
Như ta đã thấy, ngoài sự tương-đồng về thể-chất, người trong dân-tộc còn có thể đồng ngôn-ngữ, đồng tôn-giáo, phong-tục, đồng cách thức sanh-hoạt, đồng lịch-sử với nhau. Trong dân-tộc, người sống giữa một bầu không-khí quen thuộc làm cho người khoan-khoái, và giữa những bửu-vật người ưa thích. Dân-tộc bị uy-hiếp hay chế-ngự thì bầu không-khí quen thuộc kia có thể thay đổi, những bửu-vật kia có thể bị phá hủy. Như vậy, sự suy kém hay tan vỡ của dân-tộc có một ảnh-hưởng tai hại đến sự sinh-tồn của cá-nhơn và khi bảo-vệ dân-tộc người đã bảo-vệ sự sinh-tồn cá-nhơn của mình.
Vì lẽ đối với một số người, thà chết mà còn dễ chịu hơn là sống một cách cực nhục theo một thể-thức mình không thích, người sẵn sàng hy-sanh tánh-mạng cho tổ-quốc. Trong trường-hợp này sự hy-sanh của người không có tánh-cách vị dân-tộc bằng trường-hợp trên.
Nhưng dầu hy sanh vì lý-do gì cũng vậy, người cũng được đồng-bào, và có khi đến cả kẻ địch kính nể, trọng-vọng. Những chiến-sĩ của dân-tộc thường lấy họ làm gương và điều này khiến cho sự tranh-đấu cho dân-tộc càng có thêm nhiều điều-kiện tinh-thần để lôi cuốn quần-chúng theo.
Nhờ quyền-lợi dân-tộc nhiều khi phù-hợp với sự sinh-tồn cá-nhơn, nhờ phát-tiết được lòng ghét và sự vị-kỷ của mình ra dân-tộc khác, người trong một dân-tộc có thể cố-kết nhau lại và hy-sanh cho tổ-quốc mình. Người có thể gác qua một bên những sự thù-hiềm, những sự bất-hòa hay bất-đồng nhỏ nhặt để cùng lo cho tổ-quốc mình. Như thế, hợp-quần trong phạm-vi dân-tộc, người có thể giải-quyết được vấn-đề chia rẽ vì bản-năng sinh-tồn và ý-thức đồng-loại.
Tự nhiên là trong mỗi dân-tộc đều có những phần-tử đặt quyền-lợi cá-nhơn, gia-đình, đảng phái hay tôn-giáo lên trên quyền-lợi dân-tộc. Nhưng những phần-tử này thường bị dư-luận chê bai chỉ trích chớ không được ngợi khen như những anh-hùng dân-tộc. Vả lại, riêng việc người trong dân-tộc có thể cố-kết nhau lại một cách chặt chẽ và việc nhiều người trong dân-tộc vui lòng hy-sanh cho nó cũng đủ chứng tỏ rằng dân-tộc là đoàn-thể hợp-quần có nhiều điều-kiện hơn hết để đứng vững được lâu dài.
Thêm nữa, trong tất cả các đoàn-thể hợp-quần của người, không có đoàn-thể nào gồm nhiều quyền-lợi vật-chất và tinh-thần vĩnh-cửu của người cho bằng dân-tộc. Những điều trên này cho phép chúng ta kết-luận rằng dân-tộc là đoàn-thể hợp-quần có lợi nhứt cho người. Chính vì thế mà người nào cũng có một ý-niệm rõ rệt về dân-tộc, và dân-tộc-tánh của người là một yếu-tố quan-trọng vào bực nhứt mà không nhà chánh-trị khôn-khéo nào dám bỏ qua.
Một sự suy luận ngu dốt
ReplyDelete