Saturday, October 19, 2013

Những cơ chế của sự nhầm lẫn

Đông và Tây: những cây cầu chưa kịp bắc

Khoảng giữa mùa đông năm 2006 và mùa xuân 2007, vào một bữa cơm tại nhà M., chị bạn Pháp của tôi, có một cuộc bàn cãi náo nhiệt, vượt ra khỏi những cuộc chuyện trò thường lệ quanh một bàn ăn. Cuộc bàn cãi này liên quan tới sự kiện vừa xảy ra vài ngày trước đó: Trên một ngàn người Trung quốc biểu tình tại quảng trường Public, để phản đối báo chí Pháp đã “nói xấu tổ quốc Trung Hoa” của họ. Lúc này, đảng cầm quyền thuộc cánh hữu UMP, phản ứng của chính phủ là lặng im, một sự lặng im khó cắt nghĩa, và sự lặng im này làm khởi dậy những bàn tán xôn xao trong dân chúng, đặc biệt trong đảng đối lập cánh tả.


M là nhà báo và nhà văn, phòng khách của chị vốn là một trong các phòng khách Pa-ri nửa văn chương nửa chính trị cánh tả, thế nên cuộc bàn cãi ở bữa cơm tối đó dường như chỉ xoay quanh cuộc biểu tình. Vì lẽ tôi là người châu Á duy nhất có mặt, không những châu Á mà lại là Việt Nam, tổ quốc của tôi trước đây là một trong các xứ chư hầu cũ kỹ của Tầu, đương nhiên tôi buộc phải trả lời những chất vấn của mọi người.

Trước tiên, đám người Pháp tỏ ra vô cùng kinh ngạc. Họ nói:

“Đây là lần đầu tiên có một sự phản ứng trắng trợn, ngang ngược như thế của dân nhập cư, cho dù nước Pháp là nước có truyền thống đón người nhập cư nhưng không ai có thể ‘nuốt nổi’ sự lộng hành này. Quyền tự do ngôn luận vốn là quyền được từ lâu tôn trọng, chính quyền còn không thể đàn áp báo chí, huống hồ là những người nhập cư?”

Đương nhiên, ai cũng hiểu rằng sứ quán Trung Hoa chính là người tổ chức cuộc biểu tình và hành vi của họ là Động tác Nắn gân nhà cầm quyền Pháp . Sự im lặng “Tảng lờ như không biết” của chính phủ cánh hữu được coi như kết quả của con tính lờ lãi, một sự nhục nhã cần cam chịu để có thể bảo vệ các cuộc đầu tư vào đất nước trên một tỉ dân. Bây giờ, những người cánh tả lạc quan nhất cũng phải mở cuốn “Hiểm hoạ da vàng” của ông cựu bộ trưởng và viện sĩ hàn lâm Alain Peyrefitte ra đọc lại.

Họ nói:

“Có lẽ Alain Peyrefitte sinh ra dưới một ngôi sao tương ứng với chức bộ trưởng. Ông ta đã không rời khỏi cái ghế này qua cả ba triều đại: De Gaulle, Pompidou và Giscard d’Estaing. Vì ông ấy làm quan lâu quá nên không tránh khỏi sự chế riễu của mọi người. Thế nên, khi cuốn Quand la Chine s’éveillera ra lò, ai cũng riễu là trò đùa, hoặc là tác giả mắc chứng hoang tưởng bị hại. Giờ mới hiểu đó hoàn toàn chẳng phải trò đùa, cũng không là một giả thuyết thông thường, lại càng không thể là ảo tưởng.”

Điều họ thắc mắc hơn cả là khả năng biến hình của “con thằn lằn Trung Hoa”.

Câu hỏi mà rất nhiều người lặp đi lặp lại với tôi là:

“Không thể hình dung những con người nhẫn nại, hiền lành, khiêm nhường thậm chí nhút nhát như thế bỗng chốc lại trở thành những kẻ hung hăng, lố bịch. Một số đông nhà báo đã đến quảng trường Public để quan sát, sự biến hình của đám dân Trung Hoa khiến họ sửng sốt đến nỗi gần như không tin vào mắt mình”.

Tôi trả lời:

“Trong cuộc đời, bất cứ ai cũng có những lúc cảm thấy không tin vào mắt mình, ấy là do hiện thực có muôn chiều, sự vật có nhiều bề mặt mà chúng ta không đủ điều kiện để quan sát khắp lượt. Nói cách khác, một phần sự thực luôn luôn lẩn trốn chúng ta. Điều ai cũng nhìn thấy là người châu Á, đặc biệt dân Trung Hoa là những người lao động cần cù và nhũn nhặn. Các ông chủ Pháp rất thích thuê công nhân châu Á vì cùng một mức lương nhưng họ lao động nhiều hơn, cả về thời gian lẫn đảm bảo về chất lượng, thêm nữa, họ ít gây gổ, ít đòi hỏi. Tóm lại, họ là đám công nhân đem lại lợi nhuận cho các ông chủ Pháp nhiều hơn những kẻ cùng giai cấp. Về tư cách con người, họ cam phận dân nhập cư theo nghĩa cổ điển nhất của từ Exilé: Bị bứng khỏi gốc rễ của mình, phải chịu đựng nỗi thống khổ tinh thần như một điều kiện tiên quyết và một nguyên tắc (condition préalable et prémisse). Cái hiện thực đó là hiển nhiên, không thể chối cãi. Nhưng ẩn núp sau cái hiện thực nổi còn những hiện thực chìm nếu muốn ví đời sống nhân quần như một tảng băng. Trong lịch sử cận đại, phương Tây chỉ nhìn thấy một nước Trung Hoa lạc hậu, tả tơi rách nát dưới thời Từ hy thái hậu, tiếp đó lại là một nước Trung Hoa dũng mãnh nhưng điên cuồng của Mao trạch Đông, nơi các cuộc cách mạng do Mao khởi xướng đã dẫn đến hàng chục triệu người chết, hoặc chết vì đói, hoặc chết vì giết hại lẫn nhau, nhưng Mao vẫn nghiễm nhiên là một Hoàng đế vĩ đại và cuộc trình diễn sự vĩ đại này đã làm choáng váng không ít người trên thế giới. Tại nước Pháp, sau các cuộc thăm viếng Trung Hoa của tổng thống và đặc biệt là của bộ trưởng bộ văn hoá André Malraux, một số người cánh tả Pháp đã từng tự xưng là các Maoiste, cổ võ một cách nồng nhiệt cho Mao, gọi ông ta là Kẻ cứu rỗi nhân loại vĩ đại (Le Grand Sauveur) Một thời gian sau, sự thực lộ ra dưới ánh mặt trời, họ vỡ mộng, người điên, người tự tử, người sám hối, tuyệt đại đa số thì lẳng lặng thủ tiêu nhiệt tình cách mạng để quay lại, tìm cuộc sống theo lối tư sản cũ. Chính bạn tôi, M cũng đã từng là một Maoiste và sau này, chị đã viết một cuốn sách về sự kiện ấy: “Les Maos en France”.

Ông André Malraux, Bộ Trưởng Văn Hóa Pháp từ 1959 đến 1969, trong văn phòng Bộ Văn Hóa, đường Valois

Mọi người thường nhắc đi nhắc lại chi tiết sau đây:

    Vào thời kỳ cách mạng Mai-68 đã qua đỉnh cao nhưng vẫn còn vang âm đắc thắng, một nhà báo cánh tả sau khi đi thăm Trung quốc về Paris đã tuyên bố: “Chúng ta đã nhầm lẫn. Mao không phải kẻ cứu chuộc thế giới mà là một kẻ sát nhân.”

    Lúc đó, một trong số các đồng chí của ông thuộc đảng cánh tả đã hét: “Nói láo, treo cổ nó lên.”

Như thông lệ, cần phải treo cổ kẻ đầu tiên nói lên chân lý!

Phải một thời gian lâu sau đó, với các bằng chứng hiển nhiên như phim tài liệu, ảnh chụp, các băng thu âm, người Pháp mới hiểu rõ tình hình xã hội Trung Hoa.

 Một loạt biểu tình lớn tại Paris vào tháng 5, 1968 của trí thức thiên tả Pháp, được gọi là vụ Mai 1968 (Mai tiếng Pháp là tháng 5)

Nhiều trí thức tên tuổi Pháp đã tham gia cuộc biểu tình này. Họ tin là xã hội Cộng Sản tại Trung Quốc tốt đẹp hơn xã hội tư bản tại các nước Tây Phương

Rào cản do người biểu tình dựng lên gần trường Đại Học Y Khoa Paris để chống nhau với cảnh sát

Sự thật này không có gì đáng ngạc nhiên bởi theo một định nghĩa khá xa xưa: Con người là con vật của ảo tưởng

Ảo tưởng làm nên một phần hiện thực của xã hội loài người và cái không tưởng này được biểu hiện thường trực bằng một màng lưới kết cấu các ý tưởng lẫn hình ảnh. Như thế, con người khó tránh khỏi nhầm lẫn, bởi ảo tưởng với nhầm lẫn đã là các yếu tố tiền định gắn kết với thân phận người. Sự hạn chế của tư duy do văn hoá quyết định. Con người luôn luôn là tù nhân cho nền văn hoá của chính họ, đặc biệt là tù nhân cho chính ngôn ngữ mẹ đẻ của họ. Chỉ có một số rất ít người, do biết nhiều ngôn ngữ nên tiếp xúc được nhiều nền văn hoá khác nhau, thêm nữa, phải có sự từng trải và trí thông minh mới có thể nhảy qua các bức tường của cái nhà tù bản thể. Vì lẽ đó, người phương Tây không hiểu chính chữ Trung Hoa đã nói lên cái nghĩa tiềm ẩn, tức là niềm tin cố hữu và khát vọng thâm sâu nhất của dân tộc Trung Hoa: Trung Hoa nhất gia – thiên hạ nhất nhân

Thành ngữ này xuất phát từ nửa sau thời Đông Chu, để tổng kết sự tan rã của chế độ thị tộc, sự phát triển mạnh mẽ của chế độ gia tộc nhưng sau đó, ngữ nghĩa nguyên thuỷ đã phát triển, biến hình để trở thành Ý tưởng cốt lõi, thành Ngọn cờ của mọi triều đại, thành Giấc Mơ giữa ban ngày của dân chúng:

Nước Trung Hoa là trung tâm của trái đất, trung tâm của mọi nền văn minh, thiên hạ phải quy về đó.

Các ý nghĩa trên có thể tóm tắt bằng một danh từ: Chủ nghĩa Đại Hán.

Giấc mơ Đại Hán có cơ sở: Nền văn hoá của người Hán có sức mạnh chinh phục và đồng hoá không thể chối bỏ. Ánh sáng lẫn bóng tối của nền văn hoá này chiếu toả và trùm phủ một phần lớn địa cầu, kể các các quốc gia khá mạnh như Nhật cũng không thoát khỏi “ảnh hưởng của Nền văn hoá cầm đũa”.

Sức mạnh văn hoá đó làm nẩy sinh hai yếu tố:

1. Lòng kiêu hãnh nội tại.

2. Sự khinh bỉ một cách vô lý, thậm chí đến mức điên rồ với tất cả những gì ở bên ngoài nó.

Vua chúa Trung quốc có thói quen gọi tất cả các nước chư hầu như Hàn quốc, Việt nam, Thái lan, Lào, Campuchia, Miami….là các con vật: chó, lợn, chồn cáo, sâu bọ. Họ gọi những người Arabe và người châu Phi là Lũ Quỷ đen. Người châu Âu là Lũ Bạch quỷ hoặc Lũ quỷ có lông. Một trong đám Quỷ lông lá này, những người Anh đã làm cuộc chiến tranh Nha phiến và buộc bà hoàng Từ Hy phải bán đất. Sau cuộc chiến tranh ấy, nước Trung Hoa rơi vào vực sâu, khi những người dân Hồng Kông buộc phải đọc các tấm bảng cắm trong công viên bằng chính ngôn ngữ tượng hình của họ: “Cấm chó và người Trung quốc”

Cái thực tiễn ấy cùng một lần, khiến các vị hảo Hán đau khổ và nuôi dưỡng lòng căm thù đối với ngoại giới. Nhưng sự kiêu hãnh nội tại của Một nền văn minh Trung tâm và Cốt lõi thì vẫn còn nguyên. Cứ đọc những lời lẽ sau đây của một học giả Trung Hoa nổi tiếng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là rõ:

    “Người Anh học vấn rộng nhưng không tinh thông sâu sắc, người Đức tinh thông sâu sắc nhưng lại không hiểu biết rộng, chỉ có người Trung quốc vừa hiểu biết rộng nhưng lại tinh thông sâu sắc”

Và:

    “Người Mỹ nghiên cứu văn hoá Trung quốc có thể thu được tính chất uyên thâm, nếu người Anh nghiên cứu văn hoá Trung quốc có thể thu được tính chất hùng vĩ, người Đức nghiên cứu văn hoá Trung quốc có thể thu được tính chất giản dị, người Pháp nghiên cứu văn hoá có thể thu được tính chất tinh vi.”

Tác giả những lời lẽ trên đây là nhà văn Cô Hồng Minh, sinh năm 1857 chết năm 1928 giáo viên trường đại học Bắc Kinh, rất giỏi về ngôn ngữ, được miêu tả là: Phía sau mọc cái đuôi lợn (tóc tết sam dài ) mồm đọc thơ tiếng Anh, rất thú vị khi:

    “Ông Cô Hồng Minh đến trước mặt họ, gặp người Anh dùng tiếng Anh chửi người Anh, gặp người Đức dùng tiếng Đức chửi người Đức, gặp người Pháp dùng tiếng Pháp chửi người Pháp, những ông Tây nọ người nào bị chửi cũng tâm phục khẩu phục.”

    (Trích trong cuốn Thiên tài và vận mệnh do Ngô Quang Viễn biên tập, nhà xuất bản Văn hoá Thông tin Việt Nam, dịch từ bản tiếng Trung, do nhà xuất bản Hàng không dân dụng Trung quốc ấn hành năm 2000.)

Ngoài lòng kiêu hãnh bắt nguồn từ thời xa xưa ấy, người Trung Hoa được vũ trang một thứ vũ khí vô cùng lợi hại: Nhẫn nại.

Khẩu hiệu: Đội Đầu Chữ Nhẫn, được truyền thụ từ đời nọ qua đời kia

Chữ Nhẫn được coi như một phẩm chất bắt buộc để tồn tại và thành công, được giảng dạy từ thời niên thiếu, không phải bằng lý thuyết trừu tượng như ở phương Tây, mà bằng bài học cụ thể của ông Hàn Tín: Hàn Tín thuở long đong, nghèo khốn, gặp phải một gã bán thịt lợn hung bạo, ngang ngược. Trước mặt dân chúng, y buộc ông ta phải chui qua đít y nếu muốn được sống. Hàn Tín, sau khi nghĩ ngợi một giây, liền bò xuống đất như con chó, luồn qua đũng quần tên bán thịt. Tên bán thịt cười ha hả, tha chết cho ông ta. Con người chấp nhận sự nhục nhã đó sau này thành đạt, phú quý giầu sang, thường nhắc lại bài học của chính mình như một kinh nghiệm cốt lõi của sinh tồn “bài học trả bằng vàng” theo sự đánh giá của hậu thế.

Nghiệm sinh của Hàn Tín được coi là một trong các báu vật của người Trung quốc, là Nguyên Tắc Xử Thế bất di bất dịch của họ. Quả thật, kinh nghiệm Hàn Tín đã trở thành ánh sáng soi đường trong thời đen tối, là niềm an ủi dài lâu khi cuộc sống bế tắc, một yếu tố căn để tạo nên Sức Mạnh Tâm Thế Trung Hoa.

Trong mỗi người dân Trung Hoa có một ông Hàn Tín.
Hàn Tín luồn trôn. Nguồn: Chinasecret.com

Hàn Tín luồn trôn. Nguồn: Chinasecret.com

Lòng kiêu hãnh về nguồn gốc và văn hoá xây nên một pháo đài trong tâm hồn. Sự khiêm nhường và cam chịu được coi như một chiến lược để thích ứng với thời cuộc (Adaptation positive). Hai phẩm chất này tồn tại song hành, cái trước không loại trừ cái sau mà trái lại, bổ sung cho nhau. Cái hiện thực này tồn tại một cách phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội, từ sang xuống hèn, từ các bậc uyên thâm xuống đám lê dân mù chữ .

Hãy đọc lại chuyện A.Q. của Lỗ Tấn:

    “….Mỗi khi A.Q bị bọn thiếu niên túm đuôi tóc dập đầu vào tường, trong bụng y lại tự bảo: Mày đập đầu tao cũng như đập đầu bố mày thôi! A! Mày đánh bố mày đấy à?…Trong khi mồm y van xin lia lịa: Xin tha, xin tha, tôi là con sâu, tôi là con bọ, đồng ý chưa?”

Khả năng thích ứng của người Trung Hoa vô cùng linh hoạt và to lớn, những dân tộc khác khó lòng thấu hiểu, lại càng khó bắt chước. Lòng kiêu ngạo về cội rễ của họ cũng vậy, nó mang tính thần bí trước con mắt người phương Tây, nói cách khác, nó được bao phủ bởi sương mù, một thứ sương mù quá dầy đặc khiến người ta không thể thấy rõ.

Sự kiêu hãnh nội tại, khi tích cực nó cho dân Trung Hoa lòng can đảm để vượt qua mọi trở ngại, khi tiêu cực nó đưa họ đến chỗ điên cuồng với các hành động phi nhân. Tôi xin kể một câu chuyện đã xảy ra ở thành phố Lạng sơn năm 1979:

Ai cũng biết rằng Việt nam chỉ là một bản sao méo mó và mờ nhạt của Trung Hoa. Nhưng vì lạc hậu, nhỏ bé, không đồng bộ nên đôi khi, Việt nam tránh được cái gọi là Hiệu quả của Sự Tận cùng, Sự triệt để. Vào thập kỷ 60, khi nước đàn anh phương Bắc bước vào Đại nhẩy vọt, Đại tiên tiến bị rơi vào nạn đói đến mức ở một số tỉnh, các gia đình phải đổi xác người thân cho nhau để ăn. Lúc đó, vì chưa theo kịp đàn anh Trung Hoa nên Việt nam đỡ đói hơn. Lúc đó, ở vùng biên giới, nếu cô dâu Trung quốc nào có chồng Việt nam là cả một ân sủng đối với gia đình. Họ có thể đưa về cho người thân ít nhất là các chai mỡ lợn, các tảng thịt ướp muối, lạc, đậu và vừng, dân gọi việc này là tiếp tế nóng. Có trường hợp những người Trung quốc nhịn đói quá lâu, khi có chai mỡ trong tay, đã húp mỡ đến chết vì sặc. Vào những năm đói kém nhất, có hai bố con người Trung quốc vượt qua biên giới đến tìm đường sinh sống ở Lạng sơn. Người bố, kiệt lực vì lội suối trèo đèo, sớm chết. Đứa con trai, lúc đó khoảng hai mươi, nương dựa vào đám Hoa kiều, ngày ngày bán Lục tào xá, thứ chè đỗ xanh có vỏ quýt, để sống. Rồi, bất ngờ, anh ta lạc vào một gia đình thợ mộc giàu có. Ông thợ mộc này chỉ có một cô con gái, vừa xinh xắn vừa ngoan nên quý như vàng. Do duyên số, hoặc do anh chàng đẹp trai, cô gái đem lòng yêu mến. Người cha biết ý, thu nhận anh ta, dạy cho nghề mộc, sau một năm tổ chức lễ cưới và anh ta đã trở thành một đứa con rể may mắn nhất trong dãy phố, theo như đám Hoa kiều nhận định là “Chuột sa chĩnh gạo.” Cuộc sống hạnh phúc êm đềm trôi qua cho đến năm 1979, khi quân Trung quốc tiến vào, anh chàng vận đỏ này mừng hú lên để đón đồng bào, và để có thể quay về quê hương một cách hiển vinh anh ta đã chạy theo quân Trung Hoa, sau khi ném lựu đạn để giết cả gia đình, bao gồm vợ, ba đứa con hai trai một gái và bà mẹ vợ hơn bẩy mươi tuổi vì lúc đó ông thợ mộc đã chết. Sự kiện này khiến cho dân cư Lạng sơn bàng hoàng. Chết chóc, bom đạn cũng không làm họ sởn da gà lên như lúc chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng đó. Bởi sự phản bội có thể xẩy ra dưới nhiều hình thức, nhưng sự phản bội đến mức phi nhân tính như vậy thì quả là hiếm hoi vì nó vượt khỏi trí tưởng tượng của con người. Hành vi của người đàn ông này chỉ có thể giải thích như biểu hiện của sự cuồng tín. Tôn giáo mà anh ta thờ phụng phải có một sức mạnh tương tự như sức mạnh của thánh Allah đối với dân theo đạo Hồi, tôn giáo đó có thể đặt tên là tôn giáo nước lớn.

Tôn giáo nước Lớn không phải là mặt hàng mới lạ. Bất cứ dân nước nào, khi ở thế cường thịnh đều có niềm kiêu hãnh. Người Pháp đã viết hàng ngàn cuốn sách về Napoleon. Người Anh có câu nói nổi tiếng: “Mặt trời không bao giờ lặn trến đất Anh”. Dân Mỹ bây giờ tự hào vì Mỹ là nước tiêu biểu cho nền dân chủ, nơi mà: “Cơ may được chia đều cho mọi người, nơi mà Tự do và Ý chí là hai động lực cốt lõi cho mọi thăng tiến cá nhân cũng như phát triển xã hội”. Nhưng Tôn giáo nước lớn, nói cách khác tư tưởng Đại Hán của người Trung Hoa là dị biệt, bởi phân biệt chủng tộc được xây đắp trên sức mạnh chinh phục về văn hoá của dân tộc Hán đối với tất cả các dân tộc còn lại trên toàn cõi Trung Hoa. Dù trên lá cờ của nước này, năm ngôi sao tượng trưng cho năm dân tộc có chiều kích ngang nhau nhưng trên thực tiễn sự thống trị của dân tộc Hán là bằng cứ không chối cãi được. Chính một bà giáo dạy tiếng Tầu sống ở Paris nhiều năm đã nói với đám học viên: “Chỉ cần đến Bắc kinh sống vài tháng là đủ hiểu người thủ đô khinh dân các tỉnh ra sao. Tính hơn hẳn của văn hoá Hán khiến cho các dân tộc khác không thể và không dám đòi hỏi sự bình đẳng.” Dẫu không tuyên bố thẳng thừng là “Có dòng máu Xanh” như Hitler nhưng những lời thầm thì trong đáy tâm hồn của người Trung Hoa cũng có cùng cảm nhận. Bản tính người phương Đông vốn kín đáo, họ có thói quen nói một đường nghĩ một nẻo, thói quen đó có thể là một phẩm chất, cũng có thể là một khuyết tật, tuỳ theo cách đánh giá. Nhưng chắc chắn nó là một trong các vũ khí tuỳ thân. Tính thần bí của Tôn giáo nước Lớn Trung Hoa nằm ngay ở cội nguồn ngôn ngữ của họ, như trên đã dẫn, khởi thuỷ từ nửa sau thời Đông Chu, trước công nguyên, có nghĩa là tuổi thọ của nó dài hơn tuổi thọ của Công lịch. Nếu chúng ta đã chấp nhận rằng tính Ảo tưởng Utopie làm thành một bộ phận của đời sống nhân loại, lẽ đương nhiên chúng ta cũng thấy rằng Tính thần bí, Mythologie làm nên một bộ phận của cuộc sống ấy. Không phải ngẫu nhiên mà một nhà thơ phương Tây đã thở than:

    “Ôi, xứ sở không còn huyền thoại thì vô cùng lạnh lẽo.
    Nó giống như một ngôi nhà không còn lò sưởi
    và con người sẽ run rẩy rồi chết cóng khi tuyết phủ ngoài trời”

Tư tưởng Đại Hán là tôn giáo chính thống, là huyền thoại cứu rỗi của người Trung Hoa, nó thấm nhuần từ bậc thượng lưu cho đến những kẻ bần cùng như phu quét rác hoặc đám ăn mày.

Một đặc điểm nữa cần chú ý: Người Trung Hoa có thể kết hợp một cách nhuần nhuyễn hai tính chất trái chiều: Tính thực tiễn và khả năng Nuôi dưỡng huyền thoại.

Về tính thực tiễn, không ai có thể hơn người Trung Hoa, một dân tộc có khả năng buôn từ thứ hàng hoá lạ lùng độc đáo như Vua (Vua là món hàng mà Lã Bất Vi đã kiếm không biết bao lời lãi) đến những vật vô cùng cụ thể như cua cá, tôm ốc. Họ thành công từ những mối buôn to lớn như buôn toàn ngành than, điện, ngành dệt may cho đến vật bé nhỏ như cây kim sợi chỉ, cái tăm xỉa răng, cái thoa cài tóc. Cốt lõi của tính thực tiễn ấy có thể tóm tắt vào câu nói của Đặng Tiểu Bình: “Mèo trắng mèo đen đều tốt cả.”

Nhưng hình ảnh của ông Hàn Tín mới thực sự là biểu tượng đặc trưng cho tinh thần ấy. Cái việc chấp nhận bò bằng bốn cẳng như chó để chui dưới đít một tên bán thịt không chỉ biểu trưng cho chữ NHẪN, nó còn là hình tượng độc đáo cho tính THỰC TIỄN. Một hình tượng lên đến chóp của tính biểu hiện.

Qua nhiều thế kỷ, tinh thần thực tiễn cộng với óc sáng tạo, sự mềm dẻo trong vận hành đã khiến cho các ngành sản xuất và thương mại của người Trung Hoa, đặc biệt là các Hoa kiều, những người đã vượt khỏi biên giới để kiếm miếng cơm ở xứ khác, phát triển không ngưng nghỉ. Nhưng dù ở trong nước hay sống ở nước ngoài thì cái huyền thoại về một Đế Quốc Vĩ Đại, nền văn minh trung tâm của nhân loại vẫn tồn tại như Một pháo đài bất khả xâm phạm trong đáy sâu tâm hồn mỗi người Trung Hoa. Đó hoàn toàn không phải một thứ Nostalgie trường tồn mà là một Niềm tin dài lâu và vững chắc, một Tôn giáo với tất thảy các tính chất kèm theo nó.

Trở lại mùa đông năm 2006, tại phòng khách nhà M., sau khi tóm lược sơ sài những điều vừa kể trên, để kết luận, tôi nói với đám người cánh tả nước Pháp:

“Đông và Tây luôn luôn là hai thế giới riêng biệt, tạm ví như hai vùng đất thuộc hai bờ một con sông lớn. Chúng ta chưa có đủ những cây cầu bắc qua hai bờ sông ấy cho nên sự Bất khả tri là điều phải chấp nhận một cách đương nhiên. Sự Bất khả tri này bộc lộ trong chính ngôn ngữ Pháp, hãy nhớ lại ca khúc Mon mec à moi do Patricia Kaas hát. Trong đó, danh từ Chinois chỉ những điều bịa đặt, những câu chuyện huyền hoặc, tối nghĩa, không ai hiểu nổi. Danh từ này sẽ còn sống rất lâu. Bây giờ, để giải thích cho sự sửng sốt của các vị trước đám biểu tình tại quảng trường Public, tôi xin dùng hình ảnh này: Những người dân Trung Hoa nhập cư năm xưa nhũn nhặn, khiêm nhường, thậm chí rụt rè sợ hãi là gương mặt của Hàn Tín ở thời điểm phải bò bằng bốn chân luồn dưới đũng quần của gã bán thịt. Nhưng bây giờ, thời đại đã thay đổi, nước Trung Hoa hùng cường đang ở thế thượng phong, các ông Hàn Tín đang chuẩn bị nhẩy lên ngai vàng.”

Sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân

Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ về một câu hát cũ, “Anh ở đầu sông, em cuối sông. Chung nhau dòng nước Vàm cỏ Đông…”

Lãng mạn sao, những cặp tình nhân cùng uống chung một dòng nước. Và hạnh phúc thay những kẻ có thể sống cả đời bên một con sông êm đềm, qua những mùa lúa chín không tiếng súng, những trưa hè có thể nép mình dưới bóng các rặng cây. Nhưng đó là chuyện cổ tích. Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã diễn ra trong khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia cắt đến tận lòng sâu của mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn, cự bất khả tri không chỉ xẩy ra giữa hai nền văn hoá Đông-Tây mà còn xẩy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các thành viên trong một gia đình, một dòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người sống ngoài biên giới… Tóm lại, những người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông.

 Cửa hàng mậu dịch quốc doanh, Hải Phòng

Những con sông thiếu vắng những cây cầu

Khoảng cách giữa người với người có thể còn dài rộng hơn sông, sâu hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương, tôi coi Anbert Camus cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục của ta.”

Đây là kinh nghiệm của chính tôi.

Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một nhóm “Việt kiều yêu nước” đón tiếp. Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này tham gia vào phong trào chống chiến tranh và người cầm đầu nhóm ấy đã từng là phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ trong các hội nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng nhóm này đứng lên lấy chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc và Pháp trong bản kiến nghị yêu cầu nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị cấm về nước một thời gian khá dài, thậm chí còn bị gọi là “các phần tử phản động”. Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có chung mục đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng vì lý do ấy, họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp diễn ra nồng nhiệt, dường như mang mầu sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một thời gian sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt là sự nhìn nhận về cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.

Tôi tự nhủ,

    “Người ta sống trên đời, thường tụ thành bè, còn bạn là thứ quý hiếm, nó còn quý hiếm hơn tình yêu vì không có bệ đỡ tình dục. Tình bạn đòi hỏi một sự cảm thông sâu sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thể cùng nhìn về một hướng, cùng đi theo một ngả. Vì lẽ đó, tình bạn không thể có được một cách dễ dãi. Không có thứ tình cảm nào không cần thử thách, cho dù là tình yêu, tình bạn hay tình đồng đội, tất thảy đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.

Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng tránh các cuộc tranh cãi, vì nếu không là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co? Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt kiều này cuộc chiến tranh chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu hãnh, là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình thế đen trắng lẫn lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ở phía Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam bị cuốn vào dòng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên đều bị đặt vào thế đã rồi. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau đớn nhất, nhục nhã nhất cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ là người Mỹ mà còn là chính những người lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh ấy, dân tộc Việt tự biến mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám lính đánh thuê cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc chiến tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đã thực sự biến thành cái cối xay thịt khổng lồ nhất trong lịch sử của toàn thể loài người. Vì lẽ ấy, theo tôi, cả người thắng lẫn người thua phải biết sám hối, và nếu muốn lật trang cho lịch sử đất nước, trước hết kẻ thắng phải biết câm mồm lại đừng huyênh hoang nữa; còn kẻ thua cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa, cả hai phía không nên tiếp tục đào bới cái thây ma lên mà ngửi. Nếu không đủ can đảm nhìn nhận vấn đề như nó vốn thế, họ chỉ còn là đám thú rừng bị lọt xuống một cái bẫy của lịch sử và không bao giờ có thể nhẩy lên khỏi hố sâu.


 Nhà văn hóa thông tin, Hải Phòng

Năm 2005, tôi trở lại Pháp.

Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời tôi đến ăn cơm tối với họ để trao đổi tình hình. Tôi nhận lời. Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc quận 13. Trước khi đến Paris, tôi đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần lễ đó, khá nhiều báo Ý đã phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một trong số các bài báo ấy, có đề tựa “Mười triệu người chết trong cuộc chiến Việt Nam”. Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đã kể lại hai điều:

- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho các ông tướng, tôi được nghe họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công bố con số thật sự khi người Mỹ bồi thường chiến tranh. Như thế, con số phía Mỹ đưa ra (Khoảng 5 triệu tử vong) lẫn con số chính quyền Việt Nam đưa ra (Hai triệu rưỡi) đều là số sai sự thật.

- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết lính các nước chết ra sao và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận người lính và người dân Việt Nam đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang xảy ra ở Iraq. Báo mỗi ngày đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq tử vong. Nếu con số đó chạm tới năm chục đã khiến các nhà báo làm rộn lên, chất vấn tổng thống. Khi số tử vong chạm đến số 100 thì sự căng thẳng trong chính trường đã khiến Nhà Trắng điên đầu. Trong chiến tranh Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút, dân thường, thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi đông hơn sáu trăm người nhưng không có một dòng trên báo, không một câu trên đài phát thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn người nước ngoài. Tôi nói với các nhà báo Ý:

    “Tới tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt giữa kiếp người. Nhờ đọc báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq chết như người, chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng tôi chết như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô rụng, cái chết của chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm lặng.”

 Tiễn đưa bộ đội lên đường với chiếc gậy Trường Sơn

Vì ở Turin có những Việt kiều liên hệ chặt chẽ với nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi bắt buộc phải bàn cãi với họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đã thuật lại cho họ nghe sự tổn thất to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo mắc chứng vĩ cuồng. Rất nhiều trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm dò địa hình địa vật không kỹ, bộ phận hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ đẩy lính ra chiến trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính chết ngập suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức không bay lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn có những vị tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút quân và làm báo cáo giả để gỡ tội.

Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê Duẩn, đã đưa ra khẩu hiệu:

    “Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
    Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”

Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không phòng thủ!

Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân tộc, bao giờ chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian mài mòn lòng kiêu ngạo lẫn ý chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt quật ngã chúng, cũng là để củng cố quân đội rồi chờ thời cơ thuận lợi mới huy động binh lính và dân chúng tổng tấn công. Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn đưa ra là một sự sáng tạo thuần tuý, một ý thơ bay bổng, xuất phát từ tham vọng và lòng kiêu mạn cộng sản. Nhưng thơ phú là thứ chỉ để ngâm ngợi khi gió mát trăng thanh, thơ mà trà trộn với chiến tranh nó biến thành núi xương sông máu.

Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng nhưng đều hiểu ngầm rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.

Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe tôi nói xong thì hai nhân vật chủ chốt phản ứng dữ dội. Ông X bảo:

- Mục tiêu biện minh cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến tranh thì phải chấp nhận tất cả.

Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:

- Con số đó không thật. Ở nước Pháp chúng tôi có các biện pháp khoa học về dân số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe theo mấy thằng tướng ngu ấy được?

Tôi im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi có nhờ ông Phan Huy Đường, lúc đó còn dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:

- Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường là về Việt Nam chớ mở mồm mà bảo mấy ông tướng là ngu. Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ quan thời đó (trung uý, đại uý, thiếu tá…) biết rõ rằng sinh mạng họ được bảo tồn là nhờ những ông tướng thực sự thương lính và không ham thành tích như tướng Vũ Lăng. Bây giờ, nếu không giải ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu tướng. Nếu ông Y mở mồm bảo tướng của họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một báng súng vào đầu, hiền hoà nhất họ cũng khạc vào mặt.

Đấy là phản ứng duy nhất của tôi.

Trong thâm tâm, tôi quyết định chia tay.

Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến tranh chống Mỹ như người đàn bà cần son phấn. Giữa họ với ta chẳng còn điều gì đáng nói. Một cuộc chia tay vĩnh viễn là điều hợp lý hơn cả. Không cần kiệt xuất thông minh, chỉ cần chịu khó quan sát sẽ thấy ngay rằng cộng đồng người Việt ở nước Pháp là một cộng đồng không bản sắc, sống co cụm, một bầy thỏ ngoan ngoãn đối với chính quyền. Họ không gây ra các vụ lộn xộn như người da đen và người Arab theo đạo Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng nói, chẳng có một gương mặt nào trên các diễn đàn quyền lực. Vì bản chất nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó nên họ thành công ở mức trung bình, trở thành kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo viên đã là giấc mơ tột đỉnh. Hội nhập vào xã hội Pháp chưa lâu, sự tự tin vào bản thân chưa đủ, họ lại bị ám ảnh bởi thân phận lớp người Việt Nam nhập cư trước họ, những người lính thợ bị thực dân cưỡng bức rời quê hương sang Pháp phục vụ tại một số nhà máy làm thuốc súng để thay thế cho các công nhân Pháp ra chiến trường.

Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ trưởng bộ Thuộc địa và quân đội (ministre de la Colonie et de la Défense) Georges Mandel dự tính tuyển 80.000 người Đông dương. Tháng 6 năm 1940 đám thanh niên Việt Nam được dẫn đến hải cảng Pháp gồm: 10.750 người trung kỳ, 7.000 người miền Bắc, 2.000 người miền nam. Đám lính thợ này đã bị đối xử như những con vật, bị dồn vào sống trong những khu nhà tồi tàn, không điện và thiếu nước, không nơi vệ sinh, không lò sưởi và thức ăn không đủ nửa khẩu phần. Mùa đông, những kẻ khốn khổ ngủ trên sàn, đại tiểu tiện ngay bên ngoài cửa, người nọ dẫm vào phân người kia. Đói khát, họ phải đào rễ củ và hái rau dại về ăn. Cái sự thật tàn nhẫn này bị vùi trong câm lặng. Cho đến đầu thế kỷ XXI, mới có vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau đó, Bernard Kouchner, vốn là một ngôi sao cánh tả nhưng sau thất bại của Ségolen Royal trong cuộc tranh cử 2007, đã nhận lời làm bộ trưởng bộ ngoại giao cho chính phủ Sarkozy mới chính thức lên tiếng xin lỗi vì:

    “Nước Pháp đã đối xử với những người lính thợ Việt Nam như đối với súc vật.”

Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với đám lính thợ Việt Nam còn tệ hơn súc vật bởi khi cưỡng chế thanh niên Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám người này xuống hầm tầu còn tầng trên, thoáng mát hơn thì để dành cho… những con bò. Cái kinh nghiệm tồi tệ ấy được cấy trong tim như một quá khứ sầu thảm, cộng đồng người Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của những kẻ vừa là dân nhập cư, vừa mang nhãn hiệu “Được lôi ra từ vùng đất thuộc địa”. Thế nên, cuộc sống tinh thần của họ dường như đột ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến tranh Việt-Mỹ xẩy ra.

Tại sao?

Dễ hiểu thôi, tinh thần Bài Mỹ là chất xi-măng gắn kết một số đông quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ, “Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần thứ ba”

Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không thể biện minh, “Không một người Việt Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”

Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự thực là không có một người Việt Nam nào cầm dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ để giết một người Mỹ, hoặc ngay đến một con bò trong trang trại Mỹ cũng không.

Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh. Các vụ biểu tình phản đối chiến tranh trước toà Nhà Trắng của Mỹ điệp với các cuộc biểu tình trước sứ quán Mỹ tại các nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự thiêu của trí thức Mỹ đốt nóng cả châu Mỹ La-tinh và châu Âu.

Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến tranh được hưởng một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng được thăm hỏi, giúp đỡ, được coi là người của “một dân tộc anh hùng”. Và, trên các diễn đàn chống chiến tranh, đại diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước” được xuất hiện bên cạnh những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân sủng của cuộc chiến này, không bao giờ họ có cơ hội và có tư thế tiếp xúc. Để ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng kêu.

Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.

Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình.

Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo bằng máu xương kẻ khác!

Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ “yêu nước”. Phía sau danh từ này có vô vàn tâm trạng, có vô số động cơ, hoặc xác thực, hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý thức, hoặc vô thức.

Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả năng phản lại nghĩa chính thống.

Như thế, giữa người Việt với người Việt cũng bị chia cách bởi những con sông vô hình. Chắc chắn cũng còn khá lâu mới bắc được cầu qua những con sông ấy.

Chiến tranh Việt-Mỹ đã qua, nhưng sau đó không lâu cái tên Việt Nam lại dội lên trên các kênh thông tin quốc tế. Lần này, là một thứ ồn ào dơ dáy. Chẳng còn là người anh hùng bé nhỏ dám đương đầu với đế quốc Mỹ mà là tác giả của Khổ nạn Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam không còn được chào đón bằng cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối. Tôi nhớ rằng lần đi châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng thối vào giữa mặt còn đến lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn nhờ sự bố trí, dàn cảnh công phu của cảnh sát Pháp. Sự đời vốn đổi thay như các lớp tuồng. Điều khốn khổ cho người Việt Nam là dường như họ chỉ được biết đến trong các tình huống đau khổ. Kể từ khi làn sóng “Thuyền nhân” dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn gì để nhớ. Cứ nghe đài phương Tây thì biết, người ta chỉ nhắc tới hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc chiến tranh Việt-Mỹ, bởi rất nhiều trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn nghệ sĩ đã tham gia vào phong trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ gắn bó với những kỷ niệm của một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những người kiên nhẫn nhất và hiểu biết Việt Nam nhiều nhất cũng chưa dám quả quyết rằng họ nắm được sự thực về cuộc chiến tranh này. Điều đó, quá khó khăn.

Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:

- Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?

Tôi đáp:

- Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.

Anh bạn chưng hửng:

- Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.

Tôi cười:

- Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.

Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.

Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.

Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và đài phát thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế, ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như muốn chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người lạc vào một thế giới mà họ vừa cảm thấy ngây ngất vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto… (không nhớ họ), một giọng ca Ý tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi nghe là các bài nổi tiếng cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade, Histoire d’amour, Besame Mucho…

Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối tăm.

 Rạp hát Hòa Bình, Hải Phòng

Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.

Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm lăng dùng để chỉ: quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan…Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.

Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi là để bảo vệ non sông.

Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.

Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.

Giải ảo là thứ quả chín muộn

Sự thất vọng của con người thường được biểu đạt bằng hai danh từ: Giải ảo và Vỡ mộng.

Các dịch giả Việt Nam dùng hai danh từ này tuỳ theo ngữ cảnh của nhóm từ Pháp: désillusionné, désenchanté, désabusé, déçu.

Tôi chọn hai từ désenchanté và désabusé để làm bệ đỡ cho sự Giải ảo và Vỡ mộng của người Việt Nam sau cuộc chiến.

Xét trên phương diện tâm lý, cuộc chiến tranh Việt-Mỹ có thể ví như một cơn nhập đồng tập thể. Một cá nhân, trong trạng thái nhập đồng, có thể làm được những điều mà bình thường họ không thể nào làm nổi. Khi trạng thái nhập đồng chấm dứt, con người cũng đánh mất khả năng ấy.

Ví dụ rõ ràng nhất là trường hợp anh hùng Ngô thị Tuyển.Trong một cuộc máy bay Mỹ oanh tạc, để tiếp đạn cho các pháo thủ, Ngô thị Tuyển đã vác những hòm đạn nặng hơn trọng lượng thân thể của chị nhiều. Bởi vì cuộc chiến đấu kéo dài, hành động anh hùng của Ngô thị Tuyển diễn ra trước mắt tất cả mọi người, từ dân chúng, đồng đội đến các chiến sỹ pháo binh. Thế nhưng, khi các nhà báo Hà Nội yêu cầu chị diễn lại để quay phim, chị Tuyển không làm được nữa. Trước hết, cần phải nói rằng các nhà báo lúc ấy hoặc ấu trĩ hoặc hồ đồ vì không hiểu điều này: Cốt lõi hành động của Ngô thị Tuyển là lòng yêu nước cộng với bản năng tồn sinh. Vào lúc bom đạn tơi bời như thế, máy bay giặc quần thảo trên trời, tiếng rú rít của máy bay, tiếng nổ của đạn pháo, tiếng kêu thét của những người chết và bị thương tạo thành một bối cảnh tột độ căng thẳng, tình thế ấy đòi hỏi con người phải có những nỗ lực bất thường để vượt qua những nguy hiểm bất thường. Khi phải đối mặt với cái chết, không những của bản thân mà của đồng bào, đồng đội, mà phía sau những cái chết cụ thể ấy, là một cái chết vô hình hơn, cái chết của tổ quốc, những người dân yêu nước đều có khả năng làm một điều gì đó: lớn hơn bản thân họ, mạnh hơn sức lực của họ, vượt lên trên những toan tính thông thường của đời họ. Đó chính là những giây phút tạo ra các anh hùng.

Đó là sự siêu tuyệt thuần tuý (Une pure transcendance).

Các chiến sĩ và thanh niên xung phong đã chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa. Đứng phía trước thứ 2 từ trái sang là Ngô Thị Tuyển, đứng thứ 4  từ bên trái sang là Nguyễn Thị Hằng

Khi trạng thái hưng phấn cao độ, sự siêu tuyệt qua đi, con người trở lại với chính bản thân họ, với các khả năng hữu hạn của họ mà yêu cầu họ “diễn lại như thật” các hành vi lúc nhập đồng thì hoàn toàn là điều ngu ngốc, thậm chí điên rồ. Thử hỏi các đạo diễn điện ảnh xem, nếu các diễn viên của họ phải vác một cái chuỳ thật sự nặng ba chục cân chứ không phải chuỳ bằng nhựa, liệu họ còn sức diễn nữa hay không? Những nhà báo này cũng thiếu kiến thức và sự từng trải để hiểu con người: Phàm đã là người đứng đắn, không ai đủ trơ trẽn để “diễn một màn tự khoe mình”; chỉ có những kẻ vô liêm sỉ và cơ hội mới làm điều đó. Nhìn ảnh thì biết Ngô thị Tuyển là một thôn nữ thật thà, chất phác, chị ấy từ chối diễn cũng không có gì là lạ. Lúc đó, để biểu diễn những màn “chiến thắng” nhằm tuyên truyền với báo chí trong và ngoài nước đã sẵn có cô Nguyễn Thị Hằng, người nhờ nhan sắc, nhờ ôm ấp kỹ ông Quang, chỉ huy quân khu tả ngạn, được đưa lên thủ đô. Ở thủ đô, sau khi trở thành bồ non của ông Lê Đức Thọ, cô lại được ông Lê khả Phiêu tổng bí thư đảng bổ nhiệm vào chức Bộ trưởng bộ thương binh xã hội. Dân Thanh hoá có câu: “Cô Tuyển vác đạn, con đĩ Hằng lên ngôi ”

 Ngô Thị Tuyển, 1965

Ngô Thị Tuyển, sau này

Bác Hồ hỏi chuyện nữ trung đội trưởng làng Nam Ngạn Nguyễn Thị Hằng trong lễ báo công đánh thắng trận đầu

Nguyễn Thị Hằng, Bộ Trưởng Bộ Thương Binh Xã Hội

Trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ, có vô số Ngô thị Tuyển. Cả dân tộc sống trong trạng thái Nhập đồng. Làm sao có thể khác được khi phải đối mặt với một địch thủ mạnh hơn mình cả ngàn lần? Hoặc là chết một cách bị động, hoặc phải chịu đựng sự thách thức của lịch sử bằng những nỗ lực vượt lên bản thân và phải biết chấp nhận cái chết một cách chủ động. Có lẽ, nghịch lý này cũng có tính phổ biến nếu ta đọc lại các cuộc chiến tranh từ thời thượng cổ đến ngày nay. Dân tộc Việt Nam không phải dân tộc duy nhất có khả năng tiến hành những cuộc chiến tranh không cân sức, và lòng yêu nước cũng không phải đặc tính riêng biệt của những người cộng sản Việt Nam như ông Tố Hữu tự nhận. Thói tự khoe khoang là biểu hiện của sự vô văn hoá hoặc tính mù quáng. Đáng tiếc thay, trong một thời gian dài, cả xã hội Việt Nam đã tiêm nhiễm thói tự ngạo mù quáng này. Đóng góp đáng kể nhất để tạo nên cái tâm lý ấy là những bài viết của lớp “nhà báo tinh hoa của Đảng” kiểu như ông Thép Mới, và đặc biệt là các câu thơ đầy tính hào nhoáng của ông Tố Hữu:

“Ta đang đứng trên đỉnh cao thời đại”
“Lương tâm nhân loại kí thác vào ta”
“Sứ mệnh của ta là thức tỉnh lương tâm nhân loại”…

 Đọc báo Nhân Dân trong xí nghiệp

Những câu thơ kêu như cả đội kèn nhà binh thổi to hết cỡ, đầy ngập những tính từ như hùng tráng, chói lọi, cao cả… Tôi vốn không thích thơ Tố Hữu nhưng ít nhất, tôi cũng ngỡ những điều ông ta nói có đôi ba phần sự thật. Ai có thể ngờ được khả năng phét lác của “nhà thơ Lớn”, một trong số các rường cột quốc gia? Cuối hè năm 1984, tôi đến Mạc Tư Khoa, thủ đô Liên bang Xô viết, trong phái đoàn gọi là điện ảnh trẻ nhưng trên thực tế toàn những người xấp xỉ sáu mươi, tôi được coi như trẻ nhất cũng sắp 40 rồi. Đó là lần đầu tiên tôi đặt chân đến một xứ sở khác. Đứng trong khách sạn, nhìn xuống đường, gặp đúng lúc một đoàn Việt Nam khoảng ba, bốn chục người đi thành hàng ba bên vỉa hè đối diện. Chắc chắn đó là một đoàn cán bộ được đảng và nhà nước cho phép đi tham quan. Lần đầu tiên tôi bắt gặp hình ảnh thật của đồng bào mình: đó là những con người nhếch nhác, gầy guộc, ngơ ngác, rúm ró trong những bộ complet đen của bộ tài chính cho mượn. Vì phải mặc những thứ quần áo không phải của chính mình, trông họ khổ sở và ngượng nghịu. Vì bước tới một nơi xa lạ, lại không biết tiếng, họ có bộ mặt hoảng hốt, thất thần. Người đi sau phải níu vạt áo người đi trước vì sợ lạc, những người ở hàng trên cùng thì bám sát gót một người Nga, hẳn là người hướng dẫn và cũng là phiên dịch.

Vừa nhìn đám đồng bào khốn khổ của mình, tôi vừa tự nhủ:

“Đây là những người ở rừng ra, những người bị rút kiệt máu sau một cuộc chiến tranh lâu dài và cam khổ. Những người không biết đến sự sống mà chỉ quen đối mặt với cái chết. Giờ đây, giữa ban ngày, giữa đô thị, ở một phương trời khác, họ hiện hình như các bóng ma đi ra từ những miền u tối. Họ là sự cụ thể hoá bộ mặt tàn bạo của chiến tranh. Hình ảnh của họ là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc chúng ta, một dân tộc chưa bao giờ được sống thực sự. Một dân tộc sống sót. Một dân tộc kiên trì mơ ước sống, chuẩn bị sống, nhưng cuộc sống với đúng nghĩa của nó chưa đi tới. ”

Và tôi nhớ lại những câu thơ của ông Tố Hữu. Lúc này, những câu thơ ấy vang trong óc tôi như tiếng rít ghê tai của bánh xe lửa nghiến trên đường ray. Lẽ ra, thay vì khoe khoang hão, nhà nước Việt Nam phải chú ý đến đời sống các chiến binh của họ, ít ra lo cho họ được đôi giầy vừa cỡ, được tấm áo vừa lưng, trước khi đưa họ lên tầu. Như thế, không chỉ riêng ông Lê Duẩn mà ông Tố Hữu và rất nhiều lãnh tụ cộng sản Việt Nam khác cũng mắc bệnh vĩ cuồng, họ ngửa mặt nhìn lên mặt trăng, tưởng mình đang đứng trên mặt trăng trong khi công dân của họ diễu hành trên các hè phố Mạc Tư Khoa như một đám ăn mày. Tôi ngồi chết dí trong khách sạn, khóc. Ông Tô Hoàng, một sinh viên Việt Nam đang theo học tại trường điện ảnh VGIC đến thăm, liền bảo:

“Con mụ này, người ta đi Liên xô thì cười tươi như hoa, mụ thì khóc như bị đi đầy ở Nghệ Tĩnh. Đúng là rồ.”

Tôi không trả lời. Ông Tô Hoàng cũng đã từng đi lính nhưng rất nhanh đã được quay về hậu phương và được chọn ra nước ngoài học. So với thân phận hàng triệu thanh niên thời ấy, ông là kẻ may mắn. Ông chưa từng chứng kiến cảnh những bầy kiền kiền no nê xác lính đến mức không bay lên nổi. Ông cũng không chứng kiến cảnh dân thường chết dưới bom B52 Mỹ. Ông cảm thấy sung sướng khi ở nước Nga là dễ hiểu. Nước mắt của tôi là điều bất khả tri đối với ông.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi thuộc số những người vỡ mộng sớm nhất. Nhưng chỉ vài năm sau, con số những kẻ vỡ mộng tăng lên một cách không ngừng. Đầu những năm 80 sự đói khổ về vật chất là con quỷ hiện hình cả ngày lẫn đêm trên toàn cõi. Đói khổ là món quà chia đều cho toàn dân, trừ một số người nắm quyền. Sự giàu có và xa hoa của một thiểu số cộng sản giống như vòi nước lạnh hắt vào mặt dân chúng. Hiển nhiên là trong dân chúng, có vô số kẻ từ chiến trường cởi áo lính trở về. Như cuốn “Bên thắng cuộc” của ông Huy Đức đã nêu, những người anh hùng lái xe tăng 390 “cắm lá cờ lên dinh độc lập” sau khi giải ngũ, một anh đánh giậm, một anh cắt tóc, một anh lái xe lam, một anh gác đầm cá, sống trong cảnh lam lũ. Tuy nhiên, họ còn cơ may được nhà báo và nhiếp ảnh Pháp Françoise De Mulder trả lại lẽ công bằng vào năm 2003. Nhưng họ chỉ là bốn người, một tuyệt đại thiểu số. Còn hàng triệu người lính khác, khi trở về cuộc sống của dân thường, đối mặt với nỗi đói khổ và sự áp bức của hệ thống cường hào địa phương, lúc đó họ nghĩ gì?

“Chúng ta đổ máu để cho ai?”

Khi ra đi, ai cũng nghĩ là chiến đấu cho độc lập dân tộc nhưng dần dà, mọi người đều ngờ ngợ rằng mình lầm. Người Mỹ không đến chiếm đất đai, không thu hải sản, không bắt dân mò ngọc trai, nộp đá quý. Tóm lại, hoàn toàn không giống cái sơ đồ quen thuộc mà họ đã hình dung về quân Minh, quân Nguyên và quân Thanh. Khi ra trận, ai cũng có ý định ngầm ẩn là thích vào trán hai từ “Sát Thát”. Bây giờ nghĩ lại, cảm thấy có gì đó bất ổn và danh từ “quân xâm lược Envahisseurs” có vẻ như không thích hợp trong trường hợp này.

“Vậy ta chiến đấu để làm gì?”

Để cho chủ nghĩa cộng sản chiến thắng và cụ thể hơn, để mấy ông lớn cộng sản cầm quyền, đó là điều hiển nhiên ai cũng thấy.

Các ông lớn cộng sản giờ nắm trong tay tất thảy chiến lợi phẩm mà xương máu hàng chục triệu người đổi lấy: Trước hết họ nắm trong tay mười sáu tấn vàng của kho Long Thành. Họ nắm trong tay toàn bộ số vàng, kim cương cũng như ngoại tệ của dân miền Nam kẹt trong các nhà băng. Nhưng sau rốt, nguồn tài sản sau đây mới là quan trọng: Họ biển thủ toàn bộ số vàng mà lính áp tải về sau cuộc giải phóng Căm-pu-chia, số lính này quá đông nên họ không thể xử lý biện pháp quen thuộc của vua chúa xưa kia là chôn sống. Những người lính này sau khi giải ngũ đã cất tiếng thở dài:

“Biết thế hồi đó thủ một nắm cho vào túi thì giờ đây đỡ khổ!”

“Bây giờ mới biết mình ngu. Lẽ ra hồi ấy…”

Biết thế! Lẽ ra! Nếu như …

Toàn những lời than thở muộn màng.

Tiếng Pháp có một thành ngữ khá hay: Après coup!

Người ta chỉ hiểu được sự thật khi mọi sự đã lỡ làng.

Năm 1991, những vụ hoá giá biệt thự xảy ra và khá nhiều người biết đám quan lại như Lê Hãn (con trai trưởng Lê Duẩn), Trần Bạch Đằng, Trần Văn Giàu, Dương Quang Đông…cùng nhiều ông lớn khác bán mỗi biệt thự trên hai ngàn cây vàng bỏ túi. Lúc đó, bà Ngô Bá Thành, đại biểu quốc hội đã kêu lên:

“Thành phố tham nhũng tập thể, cướp công trình của cả dân tộc, chia chác xương máu của cả nước”.

Nhưng bà Ngô Bá Thành cũng như đa phần dân chúng còn không biết đến những nguồn vàng to lớn hơn, quan trọng hơn, mà kẻ cầm quyền đã chia chác trong bóng đêm.

Nỗi đau khổ chiến tranh, toàn dân phải gánh chịu, nhưng bộ phận chịu đựng sự mất mát lớn nhất vẫn là những người cầm súng và gia đình họ. Vào khoảng 2004, 2005, một tờ báo công nhận con số mất tích trong chiến tranh là trên 900.000, có nghĩa là ngót nghét một triệu. Nhà cầm quyền có thể công bố con số giả về sự tử vong nhưng con số mất tích thì khó bôi xoá vì sau chiến tranh hai, ba chục năm, những gia đình có con em mất tích vẫn tiếp tục khiếu kiện và đi tìm thân nhân của họ. Trong lúc đó, khoảng cách giữa các ông lớn cầm quyền với dân chúng càng ngày càng xa, giống như bờ đất lở.

Từ xưa đã có câu: “Tình đời thay trắng đổi đen.”

Không có gì cũ hơn và cũng chẳng có gì mới hơn là sự bội phản của người với người.

Lúc cần làm cuộc chiến tranh, ban tuyên huấn trung ương đảng tìm được cả một đội quân tuyên truyền để ngợi ca người lính. Thêm vào đó, không kể những người ăn lương để làm “tâm lý chiến” còn vô số người sáng tác theo chính cảm hứng và nhận thức của mình. Ý chí chống ngoại xâm vốn là nguồn cảm hứng cỗi rễ của một dân tộc không ngừng tranh đấu để giành quyền tự chủ như dân Việt Nam. Cố nhà văn Nguyễn Minh Châu viết cuốn “Dấu chân người lính”, cuốn sách thuộc loại best-seller đầu bảng lúc ra lò. Nhạc sĩ Vũ trọng Hối viết ca khúc tuyệt đẹp:

“Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn.

Núi mòn mà đôi gót không mòn…”

Nguyễn Minh Châu, Vũ Trọng Hối không phải bị cưỡng chế mà viết, họ viết với tất cả sự chân thành và niềm cảm hứng. Cũng như những người lính khác bước vào chiến đấu, họ sáng tác trong trạng thái Nhập đồng, hoặc nói văn vẻ hơn, trạng thái Siêu tuyệt (Transcendance). Lúc đó, chưa ai có đủ từng trải lẫn thông tin để hiểu sự thật.

Hơn một thập kỷ sau, vào năm 1985, Nguyễn Minh Châu (sinh năm 1930) hẳn đã vỡ mộng nên đã nói với tôi trên trại sáng tác Đại Lải của Hội nhà văn:

“Mình xui con người ta đi vào chỗ chết. Biết đâu sự thể nó lại ra thế này?…”

Rồi anh thở dài và im lặng. Nguyễn Minh Châu vốn là người kín đáo, thường tự nhận một cách công khai trước đồng nghiệp:

“Tôi nhát lắm, tôi sợ chết lắm. Vua chúa châu Á vốn coi nhà văn ngang với bọn ăn mày. Chúng ta phải biết thân biết phận.”

Tuy sợ chết, anh vẫn không tránh được cái chết. Chừng vài năm sau ngày gặp tôi trên trại viết văn Đại Lải, anh chết vì ung thư máu, do nhiễm chất độc màu da cam trong chiến trường Quảng trị. Đó là một nhà văn quân đội, đã từng sống khá lâu với lính Trường sơn. Tuy nhiên, anh chết sớm còn là may, nếu sống thêm một vài năm nữa, anh sẽ phải chứng kiến sự phản bội tàn độc của những kẻ cầm quyền đối với binh lính, và con tim nhút nhát của anh sẽ phải dày vò quằn quại một cách dữ dội hơn nếu anh thấy những người anh hùng năm xưa “Xẻ dọc trường sơn đi đánh Mỹ” đã biến thành “Những thằng tù không số, bị giết dần trong các nhà giam”.

Đó là sự kiện xẩy ra cuối thập kỷ 80, gần như cùng lúc với vụ Thiên An Môn ở Trung quốc.

Tôi tạm gọi là Thiên An Môn Việt Nam.

Vì sao lại là Thiên An Môn?

Vì bản chất sự việc cũng là một cuộc tàn sát dân chúng để bảo vệ nền chuyên chính và số lượng người thiệt mạng cũng ngang ngửa với vụ Thiên An Môn xẩy ra ở Tầu.

Thời đại của chúng ta là thời đại truyền thông.

Thiên An Môn Trung quốc có cơ may được biết đến vì nó xảy ra giữa ban ngày, tại Bắc kinh, nơi báo chí thế giới làm việc. Nhà cầm quyền Trung quốc vốn cứng rắn, không thèm đếm xỉa tới dư luận nước ngoài nên họ không che giấu hoặc nguỵ trang cuộc tàn sát dân chúng. Như thế, nhân loại biết được sự kiện này nhờ thói ngạo mạn của ông vua Đặng tiểu Bình.

Ngược lại trăm phần trăm, Thiên An Môn Việt Nam xẩy ra trong bóng đêm, tại các tỉnh, trước hết là Thái Bình, nơi các phóng viên báo chí thế giới bị ngăn cấm đi tới. Nhà cầm quyền Việt Nam không dám ngỗ ngược thách thức dư luận thế giới như các bậc đàn anh Trung Hoa, họ chọn con đường mềm dẻo hơn, khôn ngoan hơn và hiệu quả hơn. Số người bị chết trong cuộc tàn sát này là khoảng giữa một ngàn với hai ngàn, có nghĩa là bằng số người bị bắn chết trên quảng trường Thiên An Môn nhưng sự giết chóc diễn ra từ từ, lặng lẽ, trong các trại giam khác nhau, không một tiếng kêu nào lọt được ra ngoài, không một ống kính thu hình nào ghi lại được. Nhà cầm quyền Việt Nam, hành động theo truyền thống du kích, có nghĩa là ẩn mình trong bóng tối, nói cách khác, họ thực thi các biện pháp độc ác một cách uyển chuyển của loài rắn rết (à la façon reptilienne). Họ thành công tuyệt đối. An toàn tuyệt đối. Tuy nhiên, cũng vì không thể giết hết gia đình của các cựu chiến binh nên những người như chúng tôi mới có thể điều tra về cuộc tàn sát này.

Tôi xin kể vắn tắt:

Thời gian ấy, tôi vẫn thường gặp gỡ các ông Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang. Một bữa, ông Độ bảo:

- Mấy hôm nay họ tăng cường số công an gác cửa nhà tôi. Họ nghi cô với tôi chỉ đạo cuộc nổi dậy của các cựu chiến binh ở Thái Bình.

- Vì sao? Tôi hỏi.

Ông Trần Độ trả lời:

- Tại vì cô là dân Duyên hà còn tôi là dân Tiền hải. Chúng ta đều có gốc ở tỉnh Thái lọ. Thêm nữa, tôi là tướng còn cô cũng là dân từ Quảng bình khói lửa trở về. Họ cho rằng chúng ta xúi giục cựu chiến binh.

Tôi nói:

- Tôi có biết gì đâu. Đã gần một tháng nay tôi ngồi viết, không tiếp xúc với ai, không rời khỏi nhà quá một trăm mét. Hành trình của tôi chỉ bao gồm từ tầng ba khu chung cư xuống mặt đường rồi lại leo lên. Vài ngày một lần tôi xuống đường mua thực phẩm. Tuy nhiên, nếu họ đã ngờ vực tôi xúi giục cuộc khởi dậy này, tôi sẽ điều tra sự thật về nó, như thế, để khỏi phụ lòng bộ nội vụ Việt Nam.

Ông Độ bảo:

- Nhưng cô cũng bị theo rõi mà.

Tôi đáp:

- Đương nhiên. Nhưng bọn công an không thể theo rõi tôi 24 trên 24, buổi tối chúng nó phải về chăm con và ngủ với vợ. Vả chăng, trước kia Việt minh hoạt động du kích ra sao thì bây giờ tôi cũng hoạt động du kích đúng như vậy. Thêm nữa, tôi không phải một mình cho dù các nhà báo Pháp đặt cho tôi biệt danh “Con sói cái đơn độc”. Không ai có thể chiến đấu một mình trừ các vị thánh. Tôi không phải là thánh, tôi là người.

Phong trào đấu tranh của các cựu chiến binh tỉnh Thái Bình khởi dậy ở Quỳnh Lưu, một trong các xã nghèo nhất tỉnh. Ở đây, chính các cựu chiến binh là những người đầu tiên phát hiện ra các vụ “thu thuế đểu” của bọn hào lý. Họ phát động dân chúng lên thành phố biểu tình, yêu cầu tỉnh uỷ trả lại dân các món tiền thu khống. Dường như ở tất cả các xã, cựu chiến binh đều là lực lượng đầu tầu hướng dẫn dân chúng đấu tranh. Phong trào nhanh chóng lan sang các huyện khác. Rồi từ tỉnh Thái Bình, cuộc biến động lan sang Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định và một phần Quảng Ninh. Lúc đó, có khá nhiều nhà báo nước ngoài đòi xuống các tỉnh để xem xét tình hình. Công an Hà Nội trả lời một cách mềm mỏng:

“Xin các vị chờ một vài ngày để chúng tôi sắp xếp phương tiện đi lại. Nếu các vị đi bây giờ e rằng mất an toàn.”

Họ khất lần như vậy. Ngày nọ qua ngày kia, đám nhà báo mất kiên nhẫn. Việt Nam đã bị lãng quên, chẳng có gì đáng làm một cuộc đầu tư lớn, kể cả thời gian lẫn tiền bạc. Các điểm nóng của hành tinh đã chuyển sang vùng đất khác. Vậy là, các phóng viên nước ngoài, sau một hồi chờ đợi mỏi mệt, người nọ theo người kia lần lượt leo lên thang máy bay. Một khi, không còn ống kính báo chí nào ở Hà Nội, chính quyền lập tức tổ chức một cuộc bắt bớ rầm rộ ở khắp các địa phương. Đương nhiên, số lượng người bị bắt nhiều nhất vẫn là ở Thái Bình. Nửa đêm, xe hòm thép của công an ập vào từng làng, dưới sự dẫn đường của cán bộ xã, lôi những “kẻ đầu sỏ” các cuộc biểu tình lên xe, trước tiếng kêu la gào thét của thân nhân lẫn láng giềng. Không cần tuyên bố, cũng chẳng có cáo trạng, các cuộc bắt bớ này diễn ra giống hệt các cuộc vây ráp, khủng bố của thực dân Pháp trước đây nếu không muốn nói là còn tàn bạo hơn. Sau đêm ấy, gia đình các cựu chiến binh không có cách nào liên lạc được với thân nhân của họ. Những ông bố, bà mẹ, những người vợ hội họp nhau để đi kêu cứu. Nếu ai sống ở Hà Nội vào thời gian đó, sẽ nhớ rằng có những ngày đột nhiên con phố Trần Bình Trọng bị bít kín hai đầu, ngăn xe qua lại. Ấy là vì thân nhân các cựu chiến binh biểu tình ở cổng bộ nội vụ (số 15 Trần bình Trọng), đòi trả lời về những người bị bắt. Không ai đánh đập họ nhưng cũng không ai tiếp họ. Đám dân khốn khổ ngồi giãi nắng qua trưa, được các quan lớn phát một chiếc bánh mì rồi tống lên xe tải chở về Thái Bình. Nhưng đến nửa đường, lái xe dừng lại (đương nhiên là theo lệnh bề trên), đuổi đám dân quê xuống, bắt buộc họ phải đi bộ bốn năm chục cây số mới về đến làng. Tình trạng giao thông ở Việt Nam thời ấy vô cùng tồi tệ và khoảng cách là một trở ngại mà con người, trước hết là các nông dân, không đủ phương tiện, không có tiền nong, khó có thể vượt qua. Như thế, qua vài lượt, những người dân quê cạn kiệt hơi sức, cũng chẳng còn tiền mua vé xe lên Hà Nội tranh đấu nữa. Họ đành phải câm lặng chịu đựng. Chịu đựng, vốn là thói quen cố hữu của dân Việt Nam.

Trong lúc ấy, số phận những cựu chiến binh ra sao?

Họ bị phân bố vào các nhà tù khác nhau nằm rải rác trên toàn quốc, người nọ không còn liên lạc được với người kia. Sau vài tuần, họ bị chuyển đến sống trong các trại giam dành cho bọn tội phạm đặc biệt, những kẻ mang án chung thân hoặc ít nhất hai mươi lăm năm tù, những kẻ hung hãn, giết người không ghê tay. Ở đó, họ được thanh toán một cách dần dà bởi chính đám tù này. Giết một cựu chiến binh, án được giảm hai năm. Giết hai, án được giảm bốn năm. Tỷ lệ cứ theo thế mà nhân lên, càng giết được nhiều, càng nhanh được giải phóng. Vì thế, cuộc tàn sát trở thành một “sự nghiệp quan trọng” một cuộc “đua tranh” của bọn tội đồ. Chúng giết họ theo nhiều kiểu khác nhau. Nhưng cách được xử dụng nhiều nhất là “cắm đũa”. Vì trong trại giam, những vật được coi là vũ khí đều bị cấm nên đám quản giáo chỉ thị ngầm cho bọn phạm là chỉ sử dụng các vũ khí đặc biệt “tiện lợi, nhẹ gọn”. Phương tiện hữu hiệu nhất là đũa tre. Những chiếc đũa được vót bằng tre đực già, cứng như sắt, một đầu được mài nhọn như kim, đầu kia để tù kiểu như đầu một que đan. Khi đã có được thứ “kiếm tre” này, bọn tội phạm rình lúc các cựu chiến binh ngủ say, ấn đầu đũa nhọn vào lỗ tai họ đồng thời dùng mu bàn tay hoặc một hòn đá quả xoài thay cho chiếc búa, đóng thật mạnh vào đầu tù của chiếc đũa cho nó xuyên từ tai nọ sang tai kia. Người bị hại chết ngay tức khắc, chết không một tiếng kêu. Kiểu chết này là thứ sáng tạo vô cùng độc đáo của công an Việt Nam đáng được ghi vào sử sách. Những người cựu chiến binh, đám anh hùng Trường Sơn năm xưa, những chàng trai “vừa ca hát vừa đi vào chiến trường” đã được Đảng thân yêu của họ xử lý theo cách đó.

Trong nhóm đấu tranh của tôi có một người cũng là cựu chiến binh, trong chiến tranh Việt-Mỹ đã hai lần được đề bạt là anh hùng và cả hai lần đều trượt vì mắc tội chửi cấp trên là: “Lũ chó, chúng mày ham thành tích, chúng mày giết lính”.

Lúc xảy ra vụ Thiên An Môn Việt Nam, anh rất lo cho số phận một người đồng đội cũ nên đến Quảng Ninh tìm. Anh bạn Quảng Ninh nổi tiếng là một tay thiện xạ trong chiến tranh, ngực treo đầy huân chương, may mắn không bị bắt vì suốt thời gian xảy ra cuộc biến động phải ở trong bệnh viện nuôi đứa con bị bệnh nặng. Nhưng hai người bạn thân nhất của anh đã chết trong tù. Người cựu chiến binh này đã để nước mắt rơi lã chã và nghiến răng nói:

“Những viên đạn của tôi bay lạc. Đáng lẽ chúng phải găm vào đầu những thằng khác.”

Đáng lẽ!…

Đây là sự vỡ mộng của một người lính bị phản bội. Sự vỡ mộng ấy kèm theo ước muốn trả thù, nó bạo liệt hơn hơn tất thảy các trạng thái vỡ mộng thông thường, chỉ bộc lộ bằng những tiếng thở dài ảo não.

Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là cuộc chiến tranh mà truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam đã bị lạm dụng ở mức tối đa.

Xương máu của lính và dân đổ xuống đã xây nên bức tường thành theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa thực.

Bức tường thành đồ sộ ấy có thể là khải hoàn môn cho người này và là cổng vào địa ngục cho người kia, tuỳ theo cách nhìn của họ.

Đối với tôi, đó là bằng chứng kinh khủng nhất cho sự nhầm lẫn của con người.
Dương Thu Hương

Paris ngày 11 tháng 2 năm 2013.

© 2013 DCVOnline




1 comment:

  1. Bài viết này nói lên cảm nghĩ của một người từng sống trong guồng máy chiến tranh được tổ chức một cách tuyệt hảo để có được sức chiến đấu cao nhất. Sức chiến đấu cao đạt được nhờ một hệ thống tuyên truyền kế thừa được từ Liên Xô, Trung Quốc với các luận điệu đa dạng, phức tạp nhưng rất hiệu quả để biến người dân hăng hái lao vào lửa đạn.


    Trích: "Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân"

    Chủ nghĩa ngu dân đó là guồng máy tuyên truyền với nhiều luận điệu khéo léo. Chủ nghĩa xã hội đánh vào tâm lý người nghèo mong muốn có đời sống khá hơn, chủ nghĩa dân tộc đánh vào lòng yêu nước. Đó là công thức ăn tiền của Liên Xô, của Trung Quốc, đã được áp dụng và đem lại kết quả mỹ mãn. Đồng thời với việc cho nghe các luận điệu kích động là cấm dân không được nghe gì khác, chỉ nghe toàn luận điệu của những kẻ lãnh đạo mà thôi.


    “Ta đang đứng trên đỉnh cao thời đại”
    “Lương tâm nhân loại kí thác vào ta”
    “Sứ mệnh của ta là thức tỉnh lương tâm nhân loại”…

    Mấy câu thơ trên đánh vào tâm lý con người. Làm cho người nghe nghĩ rằng mình là kẻ cao cả, còn nhưng kẻ khác thì thấp hơn, ai chống lại mình là kẻ xấu. Nó đánh vào cái Ngã nơi con người, thấy mình là vô cùng quan trọng và có sứ mệnh phải cứu giúp loài người, và sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để làm việc đó. Đó là những lời kích động rất có hiệu quả, nhưng thực nghĩa của nó thì trống rỗng.

    Trích: "đó là những con người nhếch nhác, gầy guộc, ngơ ngác, rúm ró trong những bộ complet đen của bộ tài chính cho mượn. Vì phải mặc những thứ quần áo không phải của chính mình, trông họ khổ sở và ngượng nghịu... Lẽ ra, thay vì khoe khoang hão, nhà nước Việt Nam phải chú ý đến đời sống các chiến binh của họ, ít ra lo cho họ được đôi giầy vừa cỡ, được tấm áo vừa lưng, trước khi đưa họ lên tầu."

    Sau 1975, một số thanh niên miền Nam đi du học Liên Xô cũng kể lại là khi mùa đông đến, họ được dẫn vào một cái kho để chọn quần áo lạnh . Giày và áo lạnh thì cũ và quá khổ. Đời sống sinh viên nơi cường quốc thứ nhì trên thế giới thiếu tiện nghi, thoải mái. Khác với các sinh viên miền Nam được Canada cấp học bổng đi du học. Vào giữa thập niên 1960, họ được phát học bổng mỗi tháng 200 đô la, đủ để ra tiệm mua giày mùa đông, quần áo lạnh và đóng tiền ăn cho ký túc xá. Những người không sống trong ký túc xá, dọn ra ngoài chung nhau thuê phòng, tự nấu ăn thì lại có thể tiết kiệm được tiền hơn.

    Những nhà nước lo toan đến nhiều việc lớn quá không để tâm đến hạnh phúc của người dân chính mình nữa.

    Sau năm 2003, khi chế độ Gaddafi tại Lybia mở cửa cho phóng viên ngoại quốc vào và khuyếc trương du lịch thì có nhà báo nhận ra đó là một đất nước bị bỏ bê . Mặc dù có rất nhiều tiền do xuất cảng dầu hỏa và Gaddafi bỏ ra hàng tỉ đô la đế mua chuộc các nước Phi Châu đi theo mình, để đánh các chiếm các nước xung quanh với mục đích thống nhất Phi Châu thì viện bảo tàng tại thủ đô Tripoli lộ rõ vẻ cũ kỹ, nhếch nhác, không ai chăm sóc, đường xá những vùng xa ở trong tình trạng tệ hại, thiếu sửa chữa .

    Tại Nhật vào thời Thế Chiến 2, khi chính quyền quân phiệt Nhật chiếm Mãn Châu thì họ tìm cách đưa dân Nhật sang Mãn Châu sống để biến Mãn Châu thành một phần đất của lãnh thổ Nhật. Người dân Nhật được cho xem phim tuyên truyền đời sống tại Mãn Châu rất hạnh phúc, có nhà cửa tiện nghi, có máy cày ruộng. Khi sang đến nơi thì người dân Nhật được cấp cho một khu đất hoang để trồng cấy. Có nhà nhưng đó là một căn nhà lá khi mưa xuống bị dột. Ban đêm ngủ nghe chó sói hú bên ngoài vì đó là vùng thảo nguyên phía Bắc.

    ReplyDelete