Ăn uống đóng vai trò không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Dinh dưỡng là yếu tố quyết định sức khỏe và tuổi thọ. Bữa ăn bảo đảm dinh dưỡng là bữa ăn có đủ các thành phần dinh dưỡng cả về số lượng và chất lượng trong đó, đạm là một trong chất dinh dưỡng đảm nhận một số chức năng quan trọng trong cơ thể con người.
Đạm là gì?
Đạm là gì?
Đạm (protein) là chất căn bản của sự sống trong mọi tế bào, là thành phần của các mô cấu tạo và bảo vệ cơ thể cũng như tế bào mềm ở các cơ quan. Không có chất đạm hấp thụ từ thực phẩm thì cơ thể con người không thể tăng trưởng và mọi cơ quan nội tạng không thể hoạt động. Protein cũng lưu hành trong máu dưới hình thức những kháng thể, kích thích tố, hồng huyết cầu và các loại diêu tố. Và đạm chất cũng là nguồn duy nhất cung cấp nitrogen, một chất cần thiết cho mọi sinh vật trên trái đất. Trung bình, tỷ lệ chất đạm trong cơ thể con người là từ 10% - 20% trọng lượng, tùy theo cơ thể béo gầy, già trẻ, nam hoặc nữ.
Đạm có ở đâu?
Nói đến chất đạm là ta thường nghĩ ngay có trong thịt và cho là chỉ có thịt động vật mới có đạm. Nhiều quan niệm cho rằng ta phải ăn nhiều thịt mới có đủ đạm. Thực ra không phải vậy. Đạm có trong nhiều thực phẩm khác như rau,quả, hạt… Loại đạm này vừa dễ tiêu lại vừa ít năng lượng, ít chất béo bão hòa hơn đạm từ thịt động vật. Khác với thực vật, động vật không tạo ra được đạm chất, nên con người phải tùy thuộc vào thực vật và các động vật khác để có chất dinh dưỡng này. Trong khi một số chất dinh dưỡng khác có thể tích trữ để dùng dần, thì protein lại không tích trữ được. Nên ta cần protein mỗi ngày.
Protein không phải là chất đơn thuần. Nó là tổng hợp của nhiều hợp chất hữu cơ mà thành phần căn bản là một chuỗi amino acid với 22 loại khác nhau. Mỗi loại đạm có một số amino acid đặc biệt và chúng nối kết với nhau theo thứ tự riêng. Những amino acid này luôn luôn phân biến hoặc được tái sử dụng trong cơ thể, cho nên con người cần thay thế amino acid đã được tiêu dùng. Quá trình này bắt đầu từ khi thai nhi mới được thành hình và kéo dài suốt đời sống của con người.
Cơ thể con người chỉ tổng hợp được 13 loại amino acids, còn 9 loại kia thì phải được cung cấp từ thực phẩm gốc thực vật hay từ thịt những con thú nào đã ăn những rau trái này. Chín loại amino acids thiết yếu (essential amino acid) phải do thực phẩm cung cấp là histidine, isoleucine, leucine, lysine, methionine, phenylalamine, threonine, tryptophan và valine. Và để cơ thể tạo ra proein, ta phải cung cấp tất cả 22 loại amino acids.
Khi ta ăn thực phẩm có chất đạm thì hệ tiêu hóa sẽ biến chất đạm thành amino acids và tế bào sẽ hấp thụ những amino acids mà chúng cần. Bởi thế ta phải ăn nhiều thực phẩm khác nhau để bảo đảm có đủ các loại amino acid cần thiết cho cơ thể. Ngoài ra, khi thiếu một amino acid thiết yếu nào đó, cơ thể có khả năng lấy nó từ tế bào thịt trong người. Nhưng nếu diễn tiến này kéo dài sẽ đưa đến hao mòn cơ thịt.
Chất đạm có nhiều trong thịt, cá, sữa, trứng và có ít hơn ở rau, đậu, ngũ cốc...
Phân loại chất đạm
Chất đạm được ra làm hai loại: Loại chất đạm đủ và loại chất đạm thiếu.
Chất đạm nào có 9 thứ amino acid thiết yếu kể trên gọi là chất đạm đủ; loại nào không có một vài trong 9 thứ amino acid đó thì gọi là chất đạm thiếu.
Hầu hết mọi thực phẩm gốc động vật như thịt, sữa đều có chất đạm đủ. Trứng, dù bị mang tiếng xấu vì có nhiều cholesterol, cung cấp đầy đủ các amino acid theo đúng phân lượng mà cơ thể cần. Còn chất đạm trong thực phẩm gốc thực vật, như trái cây, ngũ cốc, rau cải, được coi như chất đạm thiếu vì nó thiếu một hoặc hai amino acid thiết yếu kể trên. Đạm trong đậu nành được coi như đủ vì nó có hầu hết amino acid cần thiết.
Nguồn gốc chất đạm
Chất đạm cần thiết cho cơ thể được cung cấp từ thực phẩm gốc động vật hay thực vật. Trong đó, thịt súc vật, sữa và cá là nguồn chất đạm dồi dào nhất, chiếm từ 15 đến 40% trọng lượng thức ăn. Nguồn chất đạm từ ngũ cốc và các thứ đậu chỉ chiếm từ 3% - 10% trọng lượng thức ăn; khoai, trái cây và cải có lá màu lục chỉ chứa có 3% hay ít hơn lượng chất đạm.
Đạm chất từ một loại thực vật không có đủ 9 amino acid thiết yếu, nhưng khi ăn chung thì chúng bổ túc cho nhau. Thí dụ ăn gạo pha với đậu, gạo thiếu lysine mà đậu lại nhiều lysine, nên khi gạo và đậu ăn chung thì cơ thể có đủ hai thứ amino acid này. Điểm cần lưu ý là sự bổ túc cho nhau này có kết quả tốt hơn nếu ăn chung cùng một lúc hoặc chỉ cách nhau vài giờ.
Công dụng của chất đạm
Mỗi amino acid của chất đạm có nhiệm vụ riêng biệt trong cơ thể cho nên một chất này không thay thế cho chất kia được. Do đó phần ăn cần đa dạng, có sự thăng bằng của các thực phẩm. Một cách tổng quát, các amino acid từ chất đạm có 5 chức năng căn bản trong cơ thể:
Cấu tạo các mô tế bào mới: Tu bổ các mô bị hư hao; Là thành phần cấu tạo của huyết cầu tố, kích thích tố, diêu tố; Sản xuất sữa để nuôi con; Cung cấp năng lượng cho các sinh hoạt cơ thể.
Ngoài ra amino acid còn: điều hòa sự cân bằng chất lỏng trong cơ thể, dung hòa nồng độ acid-kiềm; Hỗ trợ việc trao đổi chất dinh dưỡng giữa tế bào và huyết quản; Là thành phần cấu tạo nhiễm thể và gen di truyền; Một số amino acid dẫn truyền các tín hiệu thần kinh giữa các dây thần kinh và tới các bộ phận; Hỗ trợ để một số sinh tố hoàn thành được công dụng của mình.
Nhu cầu hàng ngày về chất đạm.
Trong cơ thể con người, gan tạo ra được 80% amino acid cần thiết từ chất đạm ta ăn vào còn 20% kia phải do thực phẩm cung cấp. Nhu cầu chất đạm thay đổi tùy theo tuổi tác, giai đoạn tăng trưởng, và tình trạng tốt xấu của cơ thể.
Mỗi ngày, người lớn cần được cung cấp từ 1 - 1,5g chất đạm/kg cân nặng (thí dụ một người nặng 50 kg, mỗi ngày cần từ 50g đến 75g chất đạm). Trẻ em cần khoảng 2g chất đạm/kg cân nặng. Trẻ sơ sinh đang tuổi tăng trưởng nên nhu cầu chất đạm cho mỗi ngày nhiều hơn ở người già. Phụ nữ mang thai, cho con bú, khi bị bỏng nặng cần số lượng đạm chất cao hơn.
Một chế độ dinh dưỡng nặng về thịt và nhẹ về rau quả khiến thận phải làm việc nhiều hơn trong việc đào thải các cặn bã của chất đạm qua đường tiểu tiện. Đó là chất ammonia và urea. Vì thế ta thấy người có bệnh gan thận đều được hạn chế thịt. Ngoài ra trong thịt động vật, đặc biệt loại thịt đỏ nhiều máu còn có nhiều cholesterol và mỡ bão hòa là những nguy cơ gây ra bệnh tim mạch, mập phì.
Lưu ý: Khi nấu chín vừa phải thì thịt còn mềm và dễ tiêu vì hơi nóng làm rời rạc sự dính liền giữa amino acid. Nhưng khi nấu quá lâu thì amino acid lại quấn quyện với nhau nên khó tiêu hóa và cũng mất bớt 25% số lượng.
Bác sĩ Ý Đức
Chất đạm được ra làm hai loại: Loại chất đạm đủ và loại chất đạm thiếu.
Chất đạm nào có 9 thứ amino acid thiết yếu kể trên gọi là chất đạm đủ; loại nào không có một vài trong 9 thứ amino acid đó thì gọi là chất đạm thiếu.
Hầu hết mọi thực phẩm gốc động vật như thịt, sữa đều có chất đạm đủ. Trứng, dù bị mang tiếng xấu vì có nhiều cholesterol, cung cấp đầy đủ các amino acid theo đúng phân lượng mà cơ thể cần. Còn chất đạm trong thực phẩm gốc thực vật, như trái cây, ngũ cốc, rau cải, được coi như chất đạm thiếu vì nó thiếu một hoặc hai amino acid thiết yếu kể trên. Đạm trong đậu nành được coi như đủ vì nó có hầu hết amino acid cần thiết.
Nguồn gốc chất đạm
Chất đạm cần thiết cho cơ thể được cung cấp từ thực phẩm gốc động vật hay thực vật. Trong đó, thịt súc vật, sữa và cá là nguồn chất đạm dồi dào nhất, chiếm từ 15 đến 40% trọng lượng thức ăn. Nguồn chất đạm từ ngũ cốc và các thứ đậu chỉ chiếm từ 3% - 10% trọng lượng thức ăn; khoai, trái cây và cải có lá màu lục chỉ chứa có 3% hay ít hơn lượng chất đạm.
Đạm chất từ một loại thực vật không có đủ 9 amino acid thiết yếu, nhưng khi ăn chung thì chúng bổ túc cho nhau. Thí dụ ăn gạo pha với đậu, gạo thiếu lysine mà đậu lại nhiều lysine, nên khi gạo và đậu ăn chung thì cơ thể có đủ hai thứ amino acid này. Điểm cần lưu ý là sự bổ túc cho nhau này có kết quả tốt hơn nếu ăn chung cùng một lúc hoặc chỉ cách nhau vài giờ.
Công dụng của chất đạm
Mỗi amino acid của chất đạm có nhiệm vụ riêng biệt trong cơ thể cho nên một chất này không thay thế cho chất kia được. Do đó phần ăn cần đa dạng, có sự thăng bằng của các thực phẩm. Một cách tổng quát, các amino acid từ chất đạm có 5 chức năng căn bản trong cơ thể:
Cấu tạo các mô tế bào mới: Tu bổ các mô bị hư hao; Là thành phần cấu tạo của huyết cầu tố, kích thích tố, diêu tố; Sản xuất sữa để nuôi con; Cung cấp năng lượng cho các sinh hoạt cơ thể.
Ngoài ra amino acid còn: điều hòa sự cân bằng chất lỏng trong cơ thể, dung hòa nồng độ acid-kiềm; Hỗ trợ việc trao đổi chất dinh dưỡng giữa tế bào và huyết quản; Là thành phần cấu tạo nhiễm thể và gen di truyền; Một số amino acid dẫn truyền các tín hiệu thần kinh giữa các dây thần kinh và tới các bộ phận; Hỗ trợ để một số sinh tố hoàn thành được công dụng của mình.
Nhu cầu hàng ngày về chất đạm.
Trong cơ thể con người, gan tạo ra được 80% amino acid cần thiết từ chất đạm ta ăn vào còn 20% kia phải do thực phẩm cung cấp. Nhu cầu chất đạm thay đổi tùy theo tuổi tác, giai đoạn tăng trưởng, và tình trạng tốt xấu của cơ thể.
Mỗi ngày, người lớn cần được cung cấp từ 1 - 1,5g chất đạm/kg cân nặng (thí dụ một người nặng 50 kg, mỗi ngày cần từ 50g đến 75g chất đạm). Trẻ em cần khoảng 2g chất đạm/kg cân nặng. Trẻ sơ sinh đang tuổi tăng trưởng nên nhu cầu chất đạm cho mỗi ngày nhiều hơn ở người già. Phụ nữ mang thai, cho con bú, khi bị bỏng nặng cần số lượng đạm chất cao hơn.
Một chế độ dinh dưỡng nặng về thịt và nhẹ về rau quả khiến thận phải làm việc nhiều hơn trong việc đào thải các cặn bã của chất đạm qua đường tiểu tiện. Đó là chất ammonia và urea. Vì thế ta thấy người có bệnh gan thận đều được hạn chế thịt. Ngoài ra trong thịt động vật, đặc biệt loại thịt đỏ nhiều máu còn có nhiều cholesterol và mỡ bão hòa là những nguy cơ gây ra bệnh tim mạch, mập phì.
Lưu ý: Khi nấu chín vừa phải thì thịt còn mềm và dễ tiêu vì hơi nóng làm rời rạc sự dính liền giữa amino acid. Nhưng khi nấu quá lâu thì amino acid lại quấn quyện với nhau nên khó tiêu hóa và cũng mất bớt 25% số lượng.
Bác sĩ Ý Đức
http://suckhoedoisong.vn/bac-si-gia-dinh/chat-dam-quan-trong-hang-dau-voi-co-the-20120509102459941.htm
Chất đạm là gì?
Chất đạm (còn gọi là protein) là một chất hữu cơ giàu dinh dưỡng, có trong động, thực vật.
Protein xuất phát từ chữ Proteios trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa: "quan trọng hàng đầu".
Vai trò của đạm:
Qua một số thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã chứng minh: Dù có cung cấp đầy đủ năng lượng cho cơ thể nhưng nếu không có chất đạm, cơ thể cũng sẽ yếu đi, sinh bệnh và chết.
Chức năng của chất đạm:
Chất đạm đảm nhận một số chức năng quan trọng như:
- Cung cấp năng lượng cho một hoạt động cơ thể.
- Xây dựng tế bào mới, bổ xung tế bào hư hao.
- Chất đạm còn gọi là thành phần cấu tạo huyết cầu, nội tiết tố, enzyme.
- Chất đạm rất cần thiết cho sự sinh sản.
- Điều hòa tiến trình sinh hóa (dung hòa nồng độ a-xít, kiềm, hỗ trợ việc trao đổi chất giữa các tế bào và huyết quản).
- Ngoài ra, chất đảm ảnh hưởng đến hoạt động của một số loại vitamin.
- Là thành phần cấu tạo nhiễm sắc thể và gien di truyền.
Thật vậy, đạm là chất căn bản của sự sống mọi tế bào. Nếu thiếu, các cơ quan nội tạng không thể hoạt động và tăng trưởng.
Khi thiếu đạm:
Cơ thể thiếu chất đạm sẽ dẫn đến: Suy nhược, gầy yếu, rụng tóc, da mất độ đàn hồi, cơ và xương kém phát triển, kinh nguyệt và nội tiết tố rối loạn, da xanh xao...Đặc biệt, đối với trẻ nhỏ, việc thiếu chất đạm còn gây ra những teo cơ, teo mỡ, phù nề.
Từ đó, trẻ sẽ có những biểu hiện thiếu các vitamin như: Khô mắt, quáng gà do thiếu vitamin A, tổn thương niêm mạc lưỡi do thiếu vitamin PP, chảy máu răng và xuất huyết dưới da do thiếu vitamin C...
Nhu cầu hàng ngày:
Nhu cầu về đạm thay đổi theo tuổi tác, giai đoạn tăng trưởng, tình trạng cơ thể. Thậm chí, nhu cầu này còn tùy thuộc vào chất lượng chất đạm.
Mỗi ngày, người lớn cần được cung cấp từ 1 - 1,5gr chất đạm/kg cân nặng. Trẻ em cần khoảng 2gr chất đạm/kg cân nặng.
Nguồn cung cấp:
Lượng chất đạm có thể được cung cấp bởi một thực đơn cân bằng và đa dạng.
Ngay cả với những người ăn chay, nếu ăn vừa đủ ngũ cốc và rau cải, sẽ thu nạp đủ lượng đạm cần thiết.
Nên nhớ, có thể phải có đủ 8 loại a-xít amino mới duy trì được sự cân bằng chất đạm. Trong khi đó, các a-xít amino này không thể tự tổng hợp được mà phải thông qua thực phẩm, chủ yếu là thực phẩm động vật.
Mỗi a-xít amino có một nhiệm vụ chuyên biệt. Nếu thiếu, cơ thể sẽ lấy nó từ tế bào, dẫn đến hao mòn cơ thể. Do đó, các bác sĩ luôn khuyên khẩu phần ăn nên đa dạng và có sự cân bằng thực phẩm.
Phân loại
Chất đạm chia làm 2 loại: Chất đạm tự nhiên và Chất đạm chế biến
* Chất đạm Tự nhiên :
Có nguồn gốc thức ăn động vật và nguồn gốc thực vật. Đạm động vật ưu điểm là có đủ 8 acid amin cần thiết ở tỷ lệ cân đối.
Còn đạm thực vật thường thiếu một hoặc nhiều acid amin cần thiết và ở tỷ lệ không cân đối.
Vì vậy, nên dùng đạm động vật để hỗ trợ cho đạm thực vật hoặc phối hợp những đạm thực vật với nhau.
- Thức ăn động vật:
+ Thịt: Hàm lượng chất đạm trong các loại thịt như thịt lợn, gà, vịt, bò, chim... đều xấp xỉ như nhau nhưng còn tuỳ theo thịt nạc hay mỡ mà hàm lượng chất đạm cao hay thấp. Về chất lượng chất đạm của thịt đều có đầy đủ các acid amin cần thiết và ở tỷ lệ cân đối, có tác dụng hỗ trợ tốt cho ngũ cốc.
+ Cá và các chế phẩm của cá: Cá có hàm lượng chất đạm cao, chất lượng tốt và các acid amin cân đối, cá có nhiều chất khoáng và vitamin hơn thịt đặc biệt trong gan cá có nhiều vitamin A, D, B12 nhưng cá dễ bị hỏng hơn thịt.
+ Tôm, lươn, cua và nhuyễn thể: Tôm, lươn, cua có hàm lượng và chất lượng chất đạm không kém gì so với thịt, cá, còn chất lượng chất đạm của nhuyễn thể ( ốc, trai, sò...) thì không bằng và tỷ lệ các acid amin không cân đối. Tuy vậy nhuyễn thể lại có nhiều chất khoáng hơn, nhất là canxi, đồng (Cu) và selen (Se).
+ Trứng: Các loại trứng gà, vịt, trứng cua cáy, cá là nguồn cung cấp chất đạm tốt nhất vì có đầy đủ các acid min cần thiết với tỷ lệ cân đối. Trứng vịt lộn chứa nhiều chất đạm và nội tiết tố kích thích chuyển hoá trong cơ thể người ăn.
+ Sữa: Sữa mẹ có đầy đủ chất đạm, chất béo, chất đường, vitamin và muối khoáng với tỷ lệ thích hợp, dễ hấp thu vì vậy sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ em.
+ Các loại nước chấm: Trong nước nắm, nước chấm như mai, sì dầu có chất đạm ở dạng tự do, hòa tan nên dễ hấp thu. Các loại nước nắm, nước chấm thường mặn nên ăn ít.
- Thức ăn thực vật
+ Đậu đỗ: Đậu đỗ có hàm lượng chất đạm cao. Đậu tương có giá trị dinh dưỡng rất cao. Đạm đậu tương có giá trị như đạm động vật. Ngoài ra đậu tương còn chứa các chất có tác dụng phòng chống ung thư và giảm cholesterol máu.
+ Vừng, lạc: Hàm lượng chất đạm trong vừng, lạc cao nhưng chất lượng kém hơn đậu đỗ.
* Chất đạm chế biến
Hiện nay trên thị trường Chất đạm được chế biến dạng bột, viên nang, tiêm truyền tĩnh mạch dưới dạng Protein thuỷ phân. Với nguồn nguyên liệu phong phú, có thể phối hợp với vitamin và khoáng chất. Vì vậy có tác dụng rất tốt trong hỗ trợ chức năng bảo vệ cơ thể, tăng sức đề kháng, giảm bớt nguy cơ gây bệnh. Đặc biệt viên đạm MEDICET PLUS với nguồn nguyên liệu Protein từ máu ngựa (một kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Học viên quân y 103) giúp tăng cường sức khỏe con người một cách nhanh chóng.
Các chế phẩm từ Đạm đã được dùng để phục hồi sức khoẻ nhanh, tăng hồng cầu, tăng huyết sắc tố, tăng tỷ lệ Protein trong huyết thanh làm cho các tổ chức hạt phát triển tốt, tăng tỷ lệ Protein trong huyết thanh làm cho các tổ chức hạt phát triển tốt, góp phần quan trọng trong ngành công nghiệp ghép da cho bệnh nhân bỏng nặng.Viên đạm đã được ứng dụng để phòng và điều trị cho các thương bệnh binh suy mòn ở Quân khu 9, tăng cường sức khoẻ cho một số Quân Binh chủng như Không quân, Đặc công, bộ đội Trường sa…
Theo camnangdoisonggiadinh
Thức ăn giàu đạm
Cả động vật và thực vật đều giàu chất đạm nhưng ưu điểm của đạm động vật là có đủ 8 axit amin cần thiết, tỷ lệ cân đối còn đạm thực vật thường thiếu axit amin cần thiết và tỷ lệ không cân đối. Vậy nên dùng đạm động vật để hỗ trợ cho đạm thực vật hoặc phối hợp những đạm thực vật với nhau.
Thực phẩm từ động vật:
1. Thịt:
Hàm lượng chất đạm trong các loại thịt như thịt lợn, gà, vịt, bò, chim...đều xấp xỉ như nhau nhưng còn tuỳ theo thịt nạc hay mỡ mà hàm lượng chất đạm cao hay thấp.
Về lượng chất đạm, thịt có đầy đủ các axit amin cần thiết và ở tỷ lệ cân đối, có tác dụng hỗ trợ tốt cho ngũ cốc.
Chú ý khi chế biến thịt:
- Thịt nướng, rang và nhất là ướp đường trước khi nướng, rang làm tǎng mùi vị, sức hấp dẫn nhưng làm giảm giá trị sinh học của thức ăn. Không nên cho trẻ nhỏ ăn thịt nướng, rang khô vì giảm chất dinh dưỡng và khó hấp thu.
- Thịt bị ôi thiu, hỏng sẽ tiết ra chất độc gây dị ứng hoặc ngộ độc. Dù nấu nướng khéo, che đậy được mùi vị hư hỏng nhưng chất độc vẫn còn.
- Lưu ý thịt lợn có khả năng bị nhiễm giun xoắn mà không bị phát hiện, thịt ếch nhái hay bị sán nên phải ăn chín. Riêng cóc trong da và trứng có chứa chất độc làm chết người nên khi ǎn cần loại bỏ triệt để da và phủ tạng.
- Không dùng thớt thái chung thịt chín và thịt sống.
- Nước xương, nước thịt hầm, luộc có chứa nhiều nitơ nhưng chất đạm và canxi rất ít. Nấu ǎn cho trẻ cần cho ǎn cả thịt (phần cái) chứ không phải chỉ có nước.
Giá trị dinh dưỡng của thức ǎn phụ thuộc vào thành phần hóa học của các loại thức ǎn, các chất dinh dưỡng trong thức ǎn, sự tươi sạch của thức ǎn và cách nấu nướng chế biến loại thức ǎn đó.
Thức ăn nào cũng có đầy đủ các chất dinh dưỡng đó là chất đạm, chất béo, tinh bột cùng vitamin và muối khoáng nhưng có loại thức ăn nhiều chất dinh dưỡng này có loại nhiều chất dinh dưỡng khác vì vậy nên dùng phối hợp nhiều loại thức ăn để hỗ trợ và bổ sung cho nhau nhằm đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng.
Các nhóm thức ăn chính:
- Thức ăn giàu chất đạm (protid)
- Thức ăn giàu chất béo (lipid)
- Thức ăn giàu tinh bột (glucid)
- Thức ăn cung cấp chất khoáng và vitamin
2. Cá và các chế phẩm của cá:
- Cá có hàm lượng chất đạm cao, chất lượng tốt và các axit amin cân đối. Cá có nhiều chất khoáng và vitamin hơn thịt đặc biệt trong gan cá có nhiều vitamin A, D, B12 nhưng cá dễ bị hỏng hơn thịt.
- Cá khô có hàm lượng chất đạm cao hơn cá tươi nhưng mặn và dễ bị ẩm, mốc. Chú ý cá khô mốc có thể gây nên ngộ độc.
3. Tôm, lươn, cua và nhuyễn thể:
- Tôm, lươn, cua có hàm lượng và chất lượng đạm không kém gì so với thịt, cá, còn chất lượng đạm của nhuyễn thể ( ốc, trai, sò...) thì không bằng và tỷ lệ các axit amin không cân đối. Tuy vậy nhuyễn thể lại có nhiều chất khoáng hơn, nhất là canxi, đồng(cu) và selen(se).
- Khi nhuyễn thể bị chết sẽ dễ bị phân huỷ, sinh ra độc tố nên khi ǎn ốc, trai, sò...phải chú ý loại bỏ con chết, ngâm con sống sạch trước khi nấu. Nhuyễn thể còn là vật trung gian truyền các loại bệnh như thương hàn, tiêu chảy nên nhuyễn thể cần phải được ăn chín.
- Cua đồng, con dạm giã nấu canh, nấu bột, khi lọc có mất nhiều chất đạm nhưng là chất đạm hòa tan, dễ hấp thu và còn có thêm nhiều canxi.
4. Trứng:
Các loại trứng gà, vịt, trứng cua cáy, cá là nguồn cung cấp chất đạm tốt nhất vì có đầy đủ các axit min cần thiết với tỷ lệ cân đối. Trứng có thể nhiễm ký sinh trùng hoặc vi khuẩn gây bệnh. Không nên ǎn trứng sống, trứng hỏng vì có thể bị ngộ độc.
Muốn luộc trứng lòng đào thì cho thẳng trứng vào nước nóng già rồi đun sôi vài phút, lòng trắng sẽ chín và lòng đỏ còn sống, các vitamin không bị nhiệt phá huỷ.
Trứng vịt lộn chứa nhiều chất đạm và nội tiết tố kích thích chuyển hoá trong cơ thể người ǎn.
5. Sữa:
Sữa mẹ có đầy đủ chất đạm, chất béo, chất đường, vitamin và muối khoáng với tỷ lệ thích hợp, dễ hấp thu vì vậy sữa mẹ là thức ǎn tốt nhất cho trẻ. Hiện nay ngoài thị trường có bán nhiều loại sữa bò, sữa đậu nành có nhiều chất bổ dưỡng cho trẻ em, người già, người ốm.
Sữa là môi trường rất tốt cho vi khuẩn phát triển vì vậy cần phải bảo quản cẩn thận nhất là sau khi đã pha thành sữa nước. Khi sữa bị hỏng sẽ có mầu vàng nâu từ nhạt tới sẫm.
6. Các loại nước chấm:
Trong nước nắm, nước chấm như magi, sì dầu có chất đạm ở dạng tự do, hòa tan nên dễ hấp thu. Các loại nước mắm, nước chấm thường mặn nên ǎn ít.
Thực phẩm từ thực vật
1. Đậu đỗ:
Đậu đỗ có hàm lượng chất đạm cao.
Đậu tương (đậu nành) có giá trị dinh dưỡng rất cao. Đạm đậu tương có giá trị như đạm động vật. Ngoài ra đậu tương còn chứa các chất có tác dụng phòng chống ung thư và giảm cholesterol máu.
Đậu đỗ cần ǎn chín, nên ngâm nước trước khi rang. Các sản phẩm từ đậu tương được dùng phổ biến như sữa đậu nành, đậu phụ, bột đậu nành hoặc dùng quá trình lên men để chế biến thành các sản phẩm như tương, chao, sữa chua đậu nành...để làm tǎng giá trị dinh dưỡng và tỷ lệ hấp thu của thức ǎn. Nên sử dụng nhiều sản phẩm từ đậu nành vì là loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng và có tác dụng tốt cho sức khoẻ.
2. Vừng, lạc:
Hàm lượng chất đạm trong vừng, lạc cao nhưng chất lượng kém hơn đậu đỗ. Khi rang lạc không làm ảnh hưởng tới chất lượng chất đạm.
Cần bảo quản tốt lạc để tránh mốc. Khi ǎn lạc cần loại bỏ các hạt mốc vì trong hạt lạc mốc có chứa độc tố vi nấm gây ung thư gan. Mỗi gia đình nên có một lọ muối vừng lạc để ǎn thường xuyên
Nguồn: Bộ Y tế
Việt Báo (Theo_ Dân trí)
Cảm ơn bạn chủ blog vì bài viết đầy tâm huyết này! Mình đã biết thêm được rất nhiều thứ nhờ bài viết của bạn. Cảm ơn nhiều!
ReplyDelete---------------------------
Nguyễn Tú Uyên
Nhân viên phân phối nước mắm Phú Quốc
Click để xem thêm: Bán nước mắm Phú Quốc tốt nhất tại Sai Gòn hoặc Ban nuoc mam Phu Quoc tot nhat tai Sai Gon