Sunday, February 13, 2011

Chế độ phát xít thâu tóm quần chúng vào các tổ chức của mình

Việc các tổ chức quần chúng bị đặt dưới sự lãnh đạo, hay đúng hơn - dưới sự kiểm soát của đảng phát xít, không tránh khỏi biến chúng thành những tổ chức quốc gia (vì đảng thống nhất với nhà nước). Từ đó suy ra rằng, các tổ chức này bảo vệ quyền lợi cho nhà nước phát xít, chứ không phải cho những thành viên của mình





Chế độ phát xít thâu tóm quần chúng vào các tổ chức của mình
Thâu tóm toàn bộ dân chúng vào các tổ chức quốc gia.


Ðể kết thúc quá trình đồng hóa, nghĩa là để phân chuyển sự kiểm soát của đảng phát xít trên toàn xã hội, chế độ thâu tóm mọi thành viên của mình vào các tổ chức quần chúng. Rõ ràng trên thực tế, đảng phát xít không thể kiểm soát từng công dân riêng biệt. Nhưng điều này có thể đạt được bằng cách sắp xếp dân chúng vào những tổ chức xã hội nào đó và đặt các tổ chức này dưới quyền kiểm soát của đảng thống trị . Như vậy, các tổ chức quần chúng trở thành những tổ chức tiếp diễn của đảng hay nhà nước (vì đảng và nhà nước đã sát nhập với nhau). Biện pháp chính trị này là vô cùng quan trọng trong việc xây dựng nhà nước độc tài biến họ thành những công cụ cho mục đích của mình, khiến họ không còn có thể phản kháng. Vì vậy, nhà nước độc tài có thể xem là "xã hội được tổ chức".

Bọn quốc xã đã bắt đầu thực hiện chương trình này ngay từ những ngày cầm quyền đầu tiên. Ðể thay thế cho những tổ chức quần chúng cũ từ thời nền cộng hòa Vaimar (2) đã bị giải tán, bọn quốc xã thành lập các tổ chức mới, còn quần chúng hơn, và đặt chúng dưới sự kiểm soát của đảng. Thay cho những tổ chức công đoàn tự do là Mặt Trận Lao Ðộng Ðức, thay cho rất nhiều tổ chức thanh niên khác nhau là "Thế Hệ Hitler", còn những tổ chức thiếu niên trong các trường học được thống nhất lại thành tổ chức Nhi Ðồng ("Người Công Dân Trẻ") .

Ðồng thời bọn quốc xã thành lập các hiệp hội mới: Hội Sinh Viên Quốc Xã, Liên Hiệp Phụ Nữ, Liên Hiệp Giảng Viên Ðại Học Ðức, Hội Luật Sư Ðức, Hội Quốc Xã Các Giáo Viên, Hội Các Gia Ðình Người Ðức...

Các tổ chức quần chúng này thâu tóm toàn bộ nhân dân Ðức. Không còn công dân nào trên lãnh thổ Ðế Chế mà lại không thuộc một tổ chức hay hiệp hội nào đó.

Vào năm 1939, chỉ riêng Mặt Trận Lao Ðộng Ðức đã có tới 23 triệu thành viên, "Thế Hệ Hitler" - 8 triệu. Tất cả các tổ chức quần chúng đều không có cương lĩnh riêng, vì đều phải công nhận và thực hiện theo cương lĩnh của Ðảng Quốc Xã; đồng thời được xây dựng trên nguyên tắc của đảng này: tập trung, phục tùng và đẳng cấp, v.v...

Về vấn đề này, Chủ Tịch Mặt Trận Lao Ðộng Ðức, Thủ Lĩnh Ðế Chế R. Lai, trong diễn văn đọc tại Ðại hội Ðảng ngày 13.1936 đã nói như sau: "... Mặt trận Lao động Ðức là tổ chức của đảng và chịu sự lãnh đạo của đảng. Cũng giống như đảng, Mặt trận Lao động Ðức cần phải được tự tổ chức trên nguyên tắc lãnh thổ ." (89-35)

Ðảng phát xít đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của mình đối với các tổ chức quần chúng bằng cách cử những Thủ lĩnh chính trị nắm giữ vị trí lãnh đạo của những tổ chức này. Ðứng đầu những tổ chức quần chúng đều là các đảng viên quốc xã sừng sỏ nhất: đứng đầu Hội Cơ Khí Ðức là Speer, Hội Giảng Viên quốc xã - Vexler, Hội Bác Sĩ - Coti, Hội Luật Sư quốc xã - Tirac,
v.v...

Sự lãnh đạo của đảng, đối với các tổ chức quần chúng, được đảm bảo gấp đôi. Không chỉ những thủ lĩnh các tổ chức quần chúng là những đảng viên phát xít sừng sỏ, mà cả những vị trí lãnh đạo các tổ chức cơ sở của chúng cũng đều do các đảng viên phát xít chiếm giữ.

Nếu không có sự đồng ý của cán bộ đảng cao cấp, lãnh đạo của các tổ chức quần chúng không được quyết định những vấn đề mang ý nghĩa chính trị và quốc gia quan trọng. Trong sắc lệnh do Hex ban hành ngày 25.10.1934, ghi rõ: "Các cán bộ của các tổ chức đảng, cũng như các Thủ lĩnh Ðế chế, lãnh đạo SA, SS, "Thế Hệ Hitler" và những tổ chức phụ thuộc khác không được phép thỏa thuận bất cứ một vấn đề mang tính chất chính trị nào với các tổ chức khác, nếu như không được sự đồng ý của cán bộ đảng có thẩm quyền tương ứng." (89-21)

Khi bổ nhiệm cán bộ "Thế Hệ Hitler", các cơ sở của tổ chức này bắt buộc phải tham khảo ý kiến của cán bộ đảng có thẩm quyền trong vùng đó. Như vậy, "Lãnh đạo đảng có quyền bãi bỏ những cán bộ không xứng đáng cho việc lãnh đạo thanh niên. Và nếu trước đó không có sự đồng ý của lãnh đạo đảng, lãnh đạo đảng có thể thay đổi việc bổ nhiệm này trong trường hợp thấy cần thiết." (89-20)

Việc các tổ chức quần chúng bị đặt dưới sự lãnh đạo, hay đúng hơn - dưới sự kiểm soát của đảng phát xít, không tránh khỏi biến chúng thành những tổ chức quốc gia (vì đảng thống nhất với nhà nước). Từ đó suy ra rằng, các tổ chức này bảo vệ quyền lợi cho nhà nước phát xít, chứ không phải cho những thành viên của mình. Chúng ta hãy lấy ví dụ về Mặt Trận Lao Ðộng Ðức. Trước đây trong nền Cộng Hòa Vaimar, tổ chức tương ứng (những tổ chức công đoàn) bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân trước nhà nước của giới tư sản thông qua các cuộc biểu tình, bãi công, đòi tăng lương, thay đổi điều kiện làm việc, chống việc đuổi công nhân, v.v...

Tất cả những vấn đề này bị thay đổi hoàn toàn sau khi Mặt Trận Lao Ðộng Ðức được thiết lập. Trước hết, là tư tưởng bá chủ của đảng không công nhận bất kỳ mâu thuẫn nào trong quyền lợi nhà nước và các thành viên của tổ chức này. Bãi công, biểu tình, v.v... bị cấm hoàn toàn vì như thế là chống lại nhân dân và nước Ðức. Theo hệ tư tưởng quốc xã, nhân dân, nhà nước, quê hương và lãnh tụ được ràng buộc chặt chẽ với nhau. Và vì vậy, nếu ai chống lại một mắt xích bất kỳ nào trong chuỗi này, cũng đồng thời chạm tới toàn bộ dây chuyền. Nếu một cuộc bãi công nhằm chống lại chính sách kinh tế nhà nước, thì theo cách suy luận logic quốc xã, nó đồng thời cũng chống lại quê hương và nhân dân. Do đó, trên danh nghĩa nhân dân và quê hương, cần phải đàn áp thẳng thừng cuộc bãi công này.

Trong một tài liệu đặc biệt, việc chống bãi công được vạch rõ: "... Ðàn áp thẳng thừng cuộc bãi công đầu tiên là phương pháp tốt nhất để ngăn chặn và làm gương cho những vụ tái diễn khác." (103-180). Trong diễn văn ngày 17.5.1953, R.Lai, Chủ tịch Mặt trận Lao động Ðức, khi nói về tính chất và nhiệm vụ của tổ chức này đã không quên nhấn mạnh rằng, không thể cho phép các cuộc bãi công xảy ra, "... chỉ có kẻ thù mới quan tâm đến bãi công." (103-127)

Không còn bãi công, tranh luận, bàn cãi. Ðảng Công Nhân Quốc Xã sắp xếp tất cả; hơn ai hết đảng biết cái gì nên làm, cái gì không nên làm. Ðảng được công nhận một cách hiển nhiên là không thể sai lầm và bao giờ cũng dẫn dắt nhân dân Ðức (trong đó có Mặt Trận Lao Ðộng Ðức) đi theo con đường đúng đắn nhất. Và nếu con đường này yêu cầu sự hy sinh, thì nhân dân phải sẵn sàng.

Tính chất quốc gia của Mặt Trận Lao Ðộng Ðức không chỉ thể hiện ở chỗ lãnh đạo của tổ chức này là đảng viên quốc xã, và cũng không chỉ riêng trong lĩnh vực tư tưởng, mà còn cả trong chính sách kinh tế hiện thực của nó.

Với sắc luật "Về Trật Tự Trong Lao Ðộng", các hội đồng công nhân từ thời Cộng Hòa Vaimar đều bị xóa bỏ và thay vào đó bằng cái gọi là "Hội Ðồng Tin Tưởng". Chỉ có chủ xướng và lãnh đạo đảng quốc xã tại cơ sở đó mới được quyền đề cử thành viên của những hội đồng này. Tháng 2.1935, hệ thống "sổ lao động" được thiết lập. Trong sổ lao động ghi rõ nơi làm việc, nơi cư trú của người công nhân. Nếu không được sự đồng ý của lãnh đạo nhà máy tương ứng thì người công nhân không thể tự ý bỏ việc làm, vì không còn nơi nào nhận anh ta nữa.

Như vậy nhà nước độc tài phát xít đã đẩy lùi xã hội về sau thời đại của nền dân chủ tư sản tự do, bãi bỏ quyền tự do lao động - quyền lợi đầu tiên lớn nhất của nền dân chủ sau sự sụp đổ của chế độ phong kiến; đồng thời tái lập chính sách lao động cưỡng bức kinh tế ngoại lệ đối với những người lao động.

Về vấn đề này, hệ thống nghiệp đoàn mà phát xít Italia sáng lập ra còn hoàn thiện hơn nhiều. Muxolini đã từng nói: "Nhà nước nghiệp đoàn là hệ thống điển hình và là niềm tự hào của cuộc cách mạng phát xít."(10-53). Bằng 12 liên hiệp ngành nghề của công nhân và chủ xưởng, nhà nước phát xít thâu tóm toàn bộ xã hội công chúng (công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông đường biển, hàng không, đường bộ và đường sông); và kể cả những ngành nghề tự do là liên hiệp thứ 13. Tham gia các nghiệp đoàn này là bắt buộc, bằng cách thu đoàn phí thông qua hệ thống hành chính.

Việc lãnh đạo và kiểm soát của Nhà nước đối với hệ thống nghiệp đoàn được thực hiện nhờ "sắc luật nghiệp đoàn" ban hành ngày 3.4.1926. Theo luật này, "mỗi một dạng chủ xưởng, công nhân, nghệ sĩ, v.v... chỉ được công nhận một hiệp hội hợp pháp" (112-133). Không được phép nhiều hơn, vì như thế sẽ gây khó khăn cho việc kiểm soát của nhà nước và đi ngược lại mục đích cơ bản của nó - đồng nhất xã hội.

Ðối với những hiệp hội được nhà nước công nhận, điều luật đưa ra hàng loạt hạn chế khiến chúng phải phụ thuộc tuyệt đối vào nhà nước:

"(1)Các hiệp hội không được liên kết với những tổ chức quốc tế, nếu không được sự đồng ý của cơ quan nhà nước;

(2)Việc bổ nhiệm hay bầu cử chủ tịch và thư ký các hiệp hội cơ sở sẽ không có hiệu lực, nếu không có công văn xác nhận của bộ chủ quản và sự đồng ý của Bộ Nội Vụ ." (112-133)

Thậm chí từ ngày 20.3.1930 Hội Ðồng Dân Tộc Nghiệp Ðoàn đã trở thành cơ quan hợp pháp của nhà nước, đứng đầu là Thủ Tướng chính phủ . Ðiều này đã khẳng định toàn quyền của nhà nước đối với các tổ chức và hệ thống nghiệp đoàn.

Thực chất, phát xít Italia là thí dụ điển hình về việc đảng điều hành bộ máy của nhà nước và thông qua đó mà khống chế toàn bộ xã hội. Những nghiệp đoàn thăng tiến của Tây Ban Nha chỉ là bản sao của hệ thống nghiệp đoàn ở Italia. Chúng chỉ khác nhau một điểm nhỏ là ở Italia các nghiệp đoàn phụ thuộc vào nhà nước nhiều hơn là vào đảng, còn ở Tây Ban Nha Những Nghiệp Ðoàn Thăng Tiến bị đặt dưới sự kiểm soát và giám sát trực tiếp của đảng Falanga.

Nhưng dù có sự khác nhau trong việc thành lập các tổ chức quần chúng tại ba nhà nước phát xít, nguyên tắc chung chỉ là một - nguyên tắc độc tài.

Theo những tài liệu chính gốc, việc đảng phát xít sắp xếp thanh niên vào một tổ chức duy nhất không chỉ nhằm mục đích thâu tóm và kiểm soát họ như một bộ phận nhân dân, mà còn xem tổ chức thanh niên như một công cụ dùng để giáo dục thế hệ trẻ theo tinh thần tư tưởng và ý thức sẵn sàng phục vụ cho sự nghiệp phát xít.

Cũng giống như những tổ chức quần chúng khác, "Thế Hệ Hitler" không có cương lĩnh riêng ngoài cương lĩnh của Ðảng Quốc Xã. Trong tác phẩm Thế Hệ Hitler, Fon Sirah viết: "Nhiệm vụ của tôi là giáo dục tinh thần thế hệ trẻ theo những mục đích, tư tưởng và chỉ thị của Ðảng Công Nhân Quốc Xã, đồng thời lãnh đạo và tổ chức họ ." (84-700)

Giới lãnh đạo Ðảng Công Nhân Quốc Xã chú trọng đặc biệt đến vấn đề giáo dục tư tưởng cho các thành viên của "Thế Hệ Trẻ" theo tinh thần tư tưởng quốc xã. Trong một bài báo về giáo dục chống tôn giáo cho "Thế Hệ Hitler", Rozenberg viết: "Chúng ta đã đạt được những kết quả to lớn trong sự nghiệp truyền bá tư tưởng quốc xã cho thanh niên Ðức. Tổ chức thanh niên Thiên Chúa Giáo chỉ còn lại những nhóm nhỏ và sắp tới sẽ được sát nhập vào các cơ sở của "Thế Hệ Hitler..." (84-701)

Tổ chức "Thế hệ Hitler" tiến hành nhiều biện pháp đặc biệt nhằm nhồi nhét tư tưởng quốc xã cho thanh niên Ðức; trong đó có việc mở các trường Aldolf Hitler mà chỉ những thành viên xuất sắc được tuyển chọn của tổ chức Người Công Dân trẻ mới có quyền được vào học (84-700).

Ban lãnh đạo Ðảng Quốc Xã tổ chức "Thế hệ Hitler" như lực lượng cán bộ dự bị cho bộ máy nhà nước. Ðảng Quốc Xã chỉ kết nạp vào hàng ngũ của mình những đoàn viên thanh niên "Thế Hệ Hitler" ưu tú nhất, và những người có khả năng làm công tác tổ chức thì được gửi vào học tại trường đảng cao cấp Adolf Hitler. Sau khi tốt nghiệp, những người này được đảm nhận công tác lãnh đạo trong bộ máy đảng và nhà nước.

Nếu tin vào những băng ghi âm của X. Rausing thì bản thân Hitler cũng quan tâm đặc biệt đến vấn đề giáo dục thanh niên theo tinh thần quốc xã. Hitler xem số phận tương lai của chế độ quốc xã liên quan chặt chẽ đến sự nghiệp giáo dục này:

"Tôi cần phải trở thành một nhà giáo dục nghiêm khắc... Chúng ta sẽ bắt đầu một sự nghiệp giáo dục thanh niên vĩ đạị Chúng ta đã già rồi. Chúng ta không còn bầu nhiệt huyết nóng hổi. Chúng ta đã trở nên hèn nhát và mẫn cảm. Nhưng còn thế hệ trẻ tuyệt vời của tôi! Liệu trên thế giới này có gì đẹp hơn không?

Các ngài hãy nhìn những chàng trai và những cô gái trẻ này. Họ tuyệt vời làm sao. Tôi sẽ dùng họ để xây dựng một thế giới mới...

Biện pháp giáo dục của tôi rất nghiêm khắc. Tôi sẽ dùng búa để đẽo gọt và vứt bỏ những gì bị hư hỏng. Chúng ta sẽ tạo nên một thế hệ trẻ mà thế giới nhìn vào phải run sợ . Một thế hệ trẻ hùng mạnh, quyền thế, dũng cảm và không hề biết run sợ . Tôi muốn một thế hệ như thế. Thế hệ trẻ có thể mang được những gánh nặng bất hạnh trên vai. Tôi không muốn thế hệ trẻ có những biểu hiện yếu đuối và ủy mi.... Tôi sẽ huấn luyện cho họ những bài tập thể lực. Trước hết cần mạnh mẽ: Ðó là điều quan trọng nhất" (52-57).

Theo điều luật về thanh niên, từ tháng 12.1936 "Thế Hệ Hitler" được tuyên bố là tổ chức thanh niên duy nhất ở Ðức có quyền tổ chức và giáo dục thanh niên. Ðiều luật nêu rõ: "Toàn bộ thanh niên Ðức tham gia tổ chức "Thế Hệ Hitler". Ngoài gia đình và nhà trường, thanh niên Ðức còn được giáo dục thể lực, tri thức và đạo đức theo tinh thần quốc xã để phục vụ cho nhân dân và tổ quốc của mình. Sự nghiệp giáo dục này được thực hiện thông qua "Thế Hệ Hitler" (84-699).

Tính chất quốc gia của "Thế Hệ Hitler" được thể hiện rõ ràng hơn trong mối quan hệ của nó với các tổ chức nhà nước phản động nhất như cảnh sát (SS và SA) và quân đội. "Thế Hệ Hitler" tuyển chọn hàng trăm ngàn thành viên của mình cho quân đội. Giáo dục quân sự cho thanh niên được chú trọng cho tất cả mọi hình thức và tùy thuộc sở thích từng người. "Trong các trường đào tạo cán bộ của "Thế Hệ Hitler" và đặc biệt là tại hai trường cao cấp đều có môn tập bắn súng và huấn luyện trên hiện trường..." (88-298).

Nhà nước độc tài không chỉ quan tâm đến việc thâu tóm mọi công dân vào một tổ chức nào đó, mà còn kiểm soát chặt chẽ từng giai đoạn trong cuộc đời của họ theo lứa tuổi.

Ở Ðức:

Từ 10-14 tuổi thuộc tổ chức Người công dân trẻ .

Từ 14-18 tuổi - "Thế Hệ Hitler".

Từ 18-20 tuổi - các tổ chức đảng SS, SA, v.v...

Từ 20-21 tuổi: Mặt trận lao động.

Từ 21-23 tuổi - tham gia nghĩa vụ quân sự .

Từ 23 tuổi trở đi - tham gia những tổ chức khác nhau của chế độ quốc xã và Ðảng Quốc Xã.

Ở Ytalia:

Từ 8-15 tuổi thuộc tổ chức Balila.

Từ 15-21 tuổi - Abangard.

Từ 21-30 tuổi - công an phát xít.

Sau đó tham gia Ðảng phát xít hay những tổ chức quốc gia cho đến hết đời.

Ở Tây ban nha:

Từ 7-17 tuổi thuộc tổ chức Mặt trận thanh thiếu niên, gồm 3 bậc: con trai - "Mũi tên", "Pelalox", "Thiếu sinh quân"; con gái - "Hạt xoàn", "Mũi tên" và "Mũi tên xanh". Sau đó những người theo học đại học thì tham gia các tổ chức nghiệp đoàn sinh viên quốc gia, còn những người trực tiếp sản xuất - "Nghiệp đoàn thăng tiến".

Với tham vọng thâu tóm và kiểm soát tổng thể xã hội, bọn phát xít còn thành lập những câu lạc bộ quần chúng, kiểm soát mọi hoạt động của con người trong cả thời gian nghỉ ngơi. ở Ðức, tổ chức này mang tên "Sức mạnh niềm vui". "Sức mạnh niềm vui" tổ chức những cuộc gặp gỡ, tọa đàm, những chuyến bay tập thể, những nhóm nghiên cứu va tất cả những gì mà con người có thể làm trong thời gian rỗi, nhưng bắt buộc phải theo tinh thần và nguyên tắc của cộng đồng quốc xã.

Ở Ytalia, tổ chức tương tự được gọi là "Dopolavoro" (nghĩa đen là "sau công việc"). Ðây là tổ chức lớn nhất được thành lập từ năm 1926 như một bộ phận không thể tách rời còn nhà nước nghiệp đoàn phát xít Italia. 

Bình luận:

Bài viết trên kể ra các tổ chức khác nhau của các chế độ độc tài tại Ý, Đức và Tây Ban Nha . Tên và con số các tổ chức của các chế độ có thể khác nhau nhưng nguyên tắc thì giống nhau: đó là nhà nước không cho phép bất cứ cá nhân nào được đứng ngoài các tổ chức do nhà nước lập ra. Có nghĩa là không có cá nhân nào có quyền được độc lập và tự do .

Tên của các tổ chức đó dễ dàng làm chúng ta liên tưởng đến tên của các tổ chức của chế độ cộng sản, cũng là các tổ chức bao gồm các thành phần xã hội từ thiếu nhi, đến thanh niên, nam, nữ, công nhân, nông dân, trí thức và cả người già.

Đoạn rất quan trọng trong bài trên mô tả bản chất của các tổ chức của chế độ độc tài toàn trị:

Việc các tổ chức quần chúng bị đặt dưới sự lãnh đạo, hay đúng hơn – dưới sự kiểm soát của đảng phát xít, không tránh khỏi biến chúng thành những tổ chức quốc gia (vì đảng thống nhất với nhà nước). Từ đó suy ra rằng, các tổ chức này bảo vệ quyền lợi cho nhà nước phát xít, chứ không phải cho những thành viên của mình.

Đoạn nên có ý nói vì tất cả các tổ chức được gọi là của quần chúng đó đều nằm dưới sự lãnh đạo của một đảng duy nhất, mà đảng đó là đảng đang cầm quyền nên bản chất của các tổ chức đó không còn là của quần chúng nữa mà chúng là của quốc gia, tức là của nhà nước .

Vì đó là các tổ chức của nhà nước nên chúng không tranh đấu và bảo vệ cho quyền lợi của quần chúng, là những người trong các tổ chức này mà chúng phục vụ cho quyền lợi của nhà nước và của đảng cầm quyền .

Cụ thể là công đoàn của các công nhân, trước khi chế độ Đức Quốc Xã được thiết lập thì công nhân có quyền biểu tình, đình công, như đoạn sau nói:

“Chúng ta hãy lấy ví dụ về Mặt Trận Lao Ðộng Ðức. Trước đây trong nền Cộng Hòa Vaimar, tổ chức tương ứng (những tổ chức công đoàn) bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân trước nhà nước của giới tư sản thông qua các cuộc biểu tình, bãi công, đòi tăng lương, thay đổi điều kiện làm việc, chống việc đuổi công nhân, v.v…”

Nhưng khi đảng Đức Quốc Xã lên nắm quyền, bắt công nhân phải gia nhập công đoàn do đảng chỉ huy thì công nhân không còn được quyền đình công nữa:

“Tất cả những vấn đề này bị thay đổi hoàn toàn sau khi Mặt Trận Lao Ðộng Ðức được thiết lập. Trước hết, là tư tưởng bá chủ của đảng không công nhận bất kỳ mâu thuẫn nào trong quyền lợi nhà nước và các thành viên của tổ chức này. Bãi công, biểu tình, v.v… bị cấm hoàn toàn vì như thế là chống lại nhân dân và nước Ðức.”

Trong một chế độ như vậy nếu các công nhân muốn tự ý đình công chắc chắn sẽ bị đàn áp, nếu các công nhân muốn tự thành lập công đoàn riêng cho mình thì họ cũng sẽ bị đàn áp như Công Đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan vào thập niên 1980 hay bị bỏ tù như một số người tranh đấu cho công nhân tại Việt Nam ngày nay. Các công đoàn của nhà nước độc tài toàn trị không phải để phục vụ cho quyền lợi công nhân mà để phục vụ cho quyền lợi của đảng cầm quyền . Mà phục vụ cho quyền lợi của đảng cầm quyền là đừng đình công, đừng yêu sách gì cả.

No comments:

Post a Comment